THÁI TUẾ LÀ GÌ – PHƯƠNG THÁI TUẾ ĐẾN TỌA VÀ HƯỚNG

THÁI TUẾ LÀ GÌ – PHƯƠNG THÁI TUẾ ĐẾN TỌA VÀ HƯỚNG
Tức Mộc tinh, là hành tinh lớn nhất trong Thái Dương hệ. Có thể vì với trọng lượng lớn như thế, cộng thêm hệ thống “vệ tinh” đồ sộ như vậy, nên Thái Tuế có ảnh hưởng rất lớn đối với trái đất và con người. Người Tây phương đặt tên nó là Jupiter, tức vị thần tối cao nhất trong các thần. Người Trung Hoa gọi nó là Thái Tuế, có nghĩa là sao đứng đầu trong 1 năm. Hoặc Tuế Quân, tức là Vua của cả năm đó. Sách “Thần khu Kinh” viết: “Thái Tuế là tượng nhân quân, dẫn đầu chư thần”. Cho nên Thái Tuế là Thần Sát tối cao, có sức mạnh nhất, cai quản mọi cát – hung của cả năm đó. Nó có thể tạo phúc, hoặc gây tai họa lớn, tùy theo phương vị hay Địa Chi của đối tượng là thuận, nghịch, hay hình xung, khắc hại nó mà ra.
a/ PHƯƠNG VỊ CỦA THÁI TUẾ:
Muốn biết phương vị của đối tượng là thuận hay nghịch với Thái Tuế thì trước tiên phải biết được vị trí của nó. Biết rằng Mộc tinh di chuyển chung quanh mặt trời, khoảng 12 năm mới hết 1 vòng, nên người xưa mới lập ra chu kỳ 12 con Giáp để tính vị trí của Thái Tuế theo từng năm như sau:
– Năm TÝ thì Thái Tuế ở phía BẮC.
– Các năm SỬU – DẦN Thái Tuế ở phía ĐÔNG BẮC.
– Năm MÃO Thái Tuế ở phía ĐÔNG.
– Các năm THÌN – TỴ Thái Tuế ở phía ĐÔNG NAM.
– Năm NGỌ thì Thái Tuế ở phía NAM.
– Các năm MÙI – THÂN Thái Tuế ở TÂY NAM.
– Năm DẬU Thái Tuế ở phía TÂY.
– Các năm TUẤT – HỢI Thái Tuế ở TÂY BẮC.
Tuy nhiên, lối phân định phương hướng như trên cũng chưa thật sự chính xác, vì các năm thuộc Tứ Sinh (DẦN – THÂN – TỴ – HỢI) và Tứ Mộ (THÌN – TUẤT – SỬU – MÙI) thì Thái Tuế lại nằm trong cùng 1 khu vực với nhau. Chẳng hạn như trong 2 năm SỬU và DẦN thì Thái Tuế đều nằm tại khu vực phía ĐÔNG BẮC. Nhưng vì phía ĐÔNG BẮC có tới 3 hướng là SỬU – CẤN – DẦN. Nếu như vậy thì trong 2 năm này, Thái Tuế đều chiếm hết cả 3 cung? Hay sẽ có sự phân định như thế nào? Mặt khác, vì Thái Tuế và Trái đất đều là những hành tinh di động không ngừng, vận tốc của chúng lại khác nhau, nên vị trí tương đối của chúng với nhau phải luôn luôn thay đổi, chứ không thể nằm ở 1 vị trí cố định trong suốt 2 năm trời như thế.
Một điều nữa là ngay cả vị trí của Thái Tuế trong các năm TÝ – NGỌ – MÃO – DẬU cũng còn mù mờ, chưa được xác định rõ ràng. Như nói năm TÝ thì Thái Tuế ở phía BẮC, nhưng phía BẮC cũng có 3 hướng là NHÂM – TÝ – QUÝ, nên vào năm đó thì Thái Tuế sẽ chỉ đóng tại TÝ? Hay sẽ chiếm hết cả 3 hướng nơi phía BẮC?
Cho nên, vị trí của Thái Tuế trong 12 năm và trên 24 hướng của la bàn cần phải được xác định lại 1 cách rõ ràng hơn như sau:
Năm TÝ Thái Tuế đến phía BẮC, bao gồm cả NHÂM – TÝ – QUÝ.
– Năm SỬU Thái Tuế đến phương SỬU.
– Năm DẦN Thái Tuế đến 2 phương CẤN – DẦN.
– Năm MÃO Thái Tuế đến phía ĐÔNG, bao gồm GIÁP – MÃO – ẤT.
– Năm THÌN Thái Tuế đến phương THÌN.
– Năm TỴ Thái Tuế đến 2 phương TỐN – TỴ.
ở Năm NGỌ Thái Tuế đến phía NAM, bao gồm BÍNH – NGỌ – ĐINH.
ở Năm MÙI Thái Tuế đến MÙI.
ở Năm THÂN Thái Tuế đến 2 phương KHÔN – THÂN.
ở Năm DẬU Thái Tuế đến phía TÂY, bao gồm CANH – DẬU – TÂN.
ở Năm TUẤT Thái Tuế đến TUẤT.
ở Năm HỢI Thái Tuế đến 2 phương CÀN (Kiền) – HỢI.
Vì Thái Tuế là 1 hành tinh khổng lồ (có trọng lượng gấp 318 lần trái đất, chưa kể những “vệ tinh” chung quanh nó) lại di chuyển với vận tốc rất lớn (hơn 40 triệu miles/ 1 năm – tức 64 triệu km – hay khoảng 1/2 tốc độ di chuyển của trái đất chung quanh mặt trời), cho nên khi nó đi đến đâu sẽ thu hút rất nhiều trường khí và từ lực trong không gian về phía đó. Chính vì thế nên người ta thường tránh né khu vực mà Thái Tuế đến, cho rằng nơi đó tập trung quá nhiều dương khí, nên nếu “động” sẽ có hại. Do đó, nhiều sách vở thường cho rằng Thái Tuế “nên ở phương tọa, chứ không nên nằm nơi đầu hướng” của 1 căn nhà. Thật ra, lý do cho rằng Thái Tuế nằm ở phương tọa thì sẽ tránh được mọi bất trắc, rủi ro là vì nơi đó thường yên tĩnh, ít hoạt động. Còn phía trước nhà bao giờ cũng có động khí, nên sẽ làm cho khí lưu chuyển mạnh mà đem đến nhiều tai họa.
Tuy nhiên, đây chỉ là 1 nguyên tắc chung, cần phải hiểu cho cặn kẽ và ứng biến linh hoạt, chứ không thể áp dụng 1 cách cứng nhắc hoặc “máy móc”. Biết rằng Thái Tuế đi đến đâu thì mọi trường khí, từ lực trong không gian đều bị thu hút về đó, nên bản chất của khu vực có Thái Tuế đến đã là “động”. Nếu như nơi đó lại có khí xấu, thì hung khí sẽ bị Thái Tuế và những trường khí được thu hút về đây làm cho chấn động, lưu chuyển mạnh mẽ hơn. Chỉ nguyên điều này cũng đã có thể gieo rắc nhiều tai họa. Nếu như nơi đó chẳng may lại bị người ta làm náo động như sửa nhà, chặt cây, đào móng, hoặc là nơi có đường lộ lớn, cửa vào nhà… thì hung khí sẽ bị làm chấn động quá mãnh liệt, cho nên tai họa sẽ càng dữ dội hơn. Chính vì vậy nên người xưa mới sợ, không dám “phạm” đến phương của Thái Tuế. Nhưng nếu nơi này không bị làm náo động, lại có tường bít kín, hung khí không thể vào nhà, thì tác động của Thái Tuế sẽ được giảm bớt nhiều, nên có khi vô hại.
Ngược lại, nếu như khu vực mà Thái Tuế đến lại có khí tốt, thì cát khí tại đây sẽ được Thái Tuế và các trường khí khắp nơi kéo về làm cho luân chuyển, di động mạnh, nên phúc, lộc sẽ tự nhiên mà đến. Nếu nơi này được tu sửa, động thổ, hoặc có cửa ra, vào thì cát khí càng được xung động mạnh, nên đã vượng lại càng thêm vượng, nhiều điều vui hoặc may mắn bất ngờ sẽ đưa tới trong năm đó.
Cho nên, phải hiểu được nguyên do là nơi có Thái Tuế đến đang từ “tĩnh” sẽ chuyển thành “động”, rồi tùy theo khu vực đó có cát khí hay hung khí, cũng như địa thế Loan đầu như thế nào mà sẽ phát sinh phúc lộc hoặc tai họa. Chứ không phải nếu Thái Tuế đến phương tọa là sẽ bình yên, vô sự, còn nếu đến phía trước nhà thì mới có tai họa xảy ra. Cũng như không thể áp dụng biện pháp “hóa giải” cứng nhắc, cứ hễ thấy Thái Tuế tới phương nào thì ngồi xoay lưng về phương đó, là tự cho rằng đã hóa giải được hung họa!!!
Trong vấn đề xây dựng hoặc tu sửa nhà cửa, cần phải luôn luôn chú trọng tới khu vực có Thái Tuế, tức phải xem năm tu sửa nhà cửa thì Thái Tuế đến phương nào của căn nhà? Nếu gặp năm Thái Tuế đến tọa hoặc hướng nhà thì cần phải rất thận trọng, và chỉ có thể tiến hành xây dựng hoặc tu sửa được, nếu như tọa – hướng nhà có cát khí mà thôi. Về vấn đề này thì phải nghiên cứu về Huyền không mới có thể biết. Còn khi chưa thể xác định được điều đó, thì tốt nhất là tránh, không xây dựng nhà cửa trong những năm có Thái Tuế tới tọa hoặc hướng nhà mà thôi. Nếu cứ cố làm, chẳng may lại gặp khí xấu thì dễ tán gia, bại sản, hay gặp những tai họa về hình pháp, kiện tụng, thậm chí có thể chết người nữa.
Nếu gặp năm xây nhà mà Thái Tuế đến những khu vực thuộc 2 bên hông, thì thường ít có vấn đề gì xảy ra, nhưng chỉ với điều kiện là khu vực mà Thái Tuế đến có tường che kín, địa thế bên ngoài cũng không có gì đặc biệt. Còn nếu nơi đó có cửa ra, vào thường được xử dụng, hoặc bên ngoài có hồ tắm, hay ao, đầm, sông, núi… thì cũng phải thận trọng như khi Thái Tuế tới tọa và hướng vậy.
Một vấn đề nữa là nếu cửa nhà hay cửa phòng ngủ mà nằm trong khu vực có Thái Tuế thì dễ bị thưa kiện, hoặc đụng chạm tới pháp luật trong năm đó. Nhất là đối với những người mới mua nhà, nhập trạch, mà cửa ra vào lại nằm trong khu vực có Thái Tuế đến thì càng dễ bị tai họa về hình luật, phạm pháp.
b/ SỰ HÌNH XUNG KHẮC HẠI ĐỐI VỚI THÁI TUẾ:
Ngoài những vấn đề kể trên thì còn cần để ý đến năm, tháng, ngày, giờ sinh của mọi người trong gia đình, xem có bị hình, xung, khắc, hại với Thái Tuế không? Nếu có cũng sẽ gây ra những khó khăn, hoặc tai họa cho người đó, nhất là nếu khu vực sinh hoạt của người này lại nằm tại nơi có Thái Tuế chiếu đến trong năm đó.
Nhưng làm sao biết được là năm, tháng, ngày, giờ sinh lại hình, xung, khắc, hại đối với Thái Tuế? Đó là dựa vào sự tương quan giữa các Địa chi như sau:
Địa Chi tương xung:
TÝ xung NGỌ
SỬU xung MÙI
DẦN xung THÂN
MÃO xung DẬU
THÌN xung TUẤT
TỴ xung HỢI
Địa Chi tương hình:
TÝ hình MÃO, MÃO hình TÝ
DẦN hình TỴ, TỴ hình THÂN, THÂN hình DẦN
SỬU hình MÙI, MÙI hình TUẤT, TUẤT hình SỬU
NGỌ gặp NGỌ, HỢI gặp HỢI, THÌN gặp THÌN, DẬU gặp DẬU là tự hình.
Địa Chi tương hại:
TÝ – MÙI tương hại
SỬU – NGỌ tương hại
DẦN – TỴ tương hại
MÃO – THÌN tương hại
THÂN – HỢI tương hại
DẬU – TUẤT tương hại
Tuy nhiên, trường hợp Địa chi tương hại chỉ ứng dụng cho ngày sinh mà thôi. Còn đối với năm, tháng, giờ sinh nếu bị cũng không đáng kể lắm.