CÁC TÍNH HẠN VÀ CÁC YẾU TỐ VÀ HẠN TRONG TỬ VI

CÁC TÍNH HẠN VÀ CÁC YẾU TỐ VÀ HẠN TRONG TỬ VI

Cách Tính Đại Vận và Tiểu Vận

  1. MỆNH VÀ VẬN: 

MỆNH là một loại thế lực mà khả năng con người không thể nào chống cự lại được. MỆNH mang quyền lực của qui luật tự nhiên, rất to lớn bao la vĩnh hằng. Con người mãi mãi vẫn chỉ là một trẻ thơ trung thực của tự nhiên. Nếu định vượt qua hoặc không tuân thủ qui luật tự nhiên thì chỉ chuốc lấy tai họa bi thảm.

VẬN, tức là Vận khí của từng giai đoạn thời gian cụ thể nào đó, sẽ phát sinh thịnh hay suy, thông suốt hay bế tắc. Vui buồn ,sướng khổ, vinh nhục …đều đã được an bài sẵn. Con người chỉ có thể nương theo Vận số, nếu gặp vận thịnh thì tranh thủ khai thác thuận lợi, gặp vận suy thì thủ thường, có biện pháp phòng ngưà hợp lý để giảm bớt rủi ro chứ không sửa số được. Vận được chia ra ĐẠI VẬN, TIỂU VẬN…

A/ Đại Vận: Mỗi Đại Vận là 10 Năm: Khi ta lấy Lá số từ các trang Web, từng Đại Vận đã được ghi ngay trên 12 Cung của Lá số, không còn phải mất công xác định như trước kia.  Một cung đã được ghi đại Vận, tức là vận hạn trong 10 năm phải được xem trong cung đó.

Thí dụ: Hỏa lục cục, bắt đầu ghi số 6 ở cung Mệnh. Như vậy: trong khoảng từ 6 tuổi đến 15 tuổi phải xem vận hạn ở cung Mệnh. Đến năm 16 tuổi, đại hạn mới chuyển sang cung bên cạnh.

B/ Lưu Đại Vận: Ngoài các Cung Đại Vận, việc xác định Vận còn được xét thêm ở một Cung nữa, gọi là Cung Lưu Đại Vận: Cung đã ghi đại Vận, gọi là cung gốc của đại hạn 10 năm. Muốn xem vận hạn tường tận hơn, phải Lưu đại Vận hàng năm. Cách xác định Cung LƯU ĐẠI VẬN như sau:

Sau khi ghi đại hạn 10 năm, cung ghi đại hạn gọi là cung gốc. Muốn tính Cung Lưu Đại Vận thì phải:

1: Đầu tiên, lấy số tuổi (bắt đầu một Đại Vận) ở cung gốcrồi chuyển sang cung xung chiếu tăng lên 1 tuổi.

2: Tiếp đến, căn cứ Mệnh chủ:

DUONG NAM, ÂM NỮ: lùi lại một cung (thêm 1 tuổi) rồi trở lại cung xung chiếu (thêm 1 tuổi nữa), tiến theo chiều thuận, mỗi cung 1 tuổi…đến cung nào đủ sô tuổi bạn muốn tính Lưu Đại Vận thì ngừng lại.

DƯƠNG NỮ, ÂM NAM tiến lên một cung (thêm 1 tuổi) rồi trở lại cung xung chiếu (thêm 1 tuổi nữa), lùi theo chiều nghịch, mỗi cung 1 tuổi…đến cung nào đủ sô tuổi bạn muốn tính Lưu Đại Vận thì ngừng lại.

 

 

Ví dụ: một lá số dương nữ, hoả lục cục thì dại hạn 10 năm an như sau : 6 ở mệnh ( cung Thân), 16 ở bào ( mùi), 26 ở phu thê( ngọ) , 36 ở tử tức….. Muốn tính Lưu Đại Vận năm 35 tuổi chẳng hạn thì bắt đầu từ cung gốc là cung Phu ở ngọ ( 26 tuổi), đếm xung chiếu sang cung QUAN Ở TÍ là 27 tuổi, TIẾN THEO CHIỀU THUẬN 1 CUNG LÀ CUNG SỬU (28 tuổi), SAU ĐÓ TRỞ VỀ CUNG XUNG CHIẾU LÀ CUNG TÍ (29 tuổi), LÙI THEO CHIỀU NGHỊCH, MỖI CUNG LÀ 1 TUỔI THÌ 30 Ờ Hợi, 31 ở Tuất, 32 ở dậu, 33 ở Thân, 34 ở Mùi, 35 là cung Ngọ. Vậy Lưu Đại Vận của dương nữ trên 35 tuổi là ở cung Ngọ.

CHIỀU THUẬN LÀ ĐI THEO CHIỀU TỪ THÂN,DẬU, TUẤT, HỢI…., CHIỀU NGHỊCH LÀ ĐI THEO CHIỀU TỪ THÂN, MÙI, NGỌ, TỴ…

 

-Lưu Niên Đại Vận: trước khi xem hạn thì phải biết xác định gốc Đại vận 10 năm. Trên lá số Tử vi tùy theo Âm Dương Nam Nữ và tùy theo Thủy nhị cục, Mộc tam cục, Kim tứ cục, Thổ ngũ cục, Hỏa lục cục, ở mỗi ô trên 12 cung Thiên bàn mỗi con số đó là số tuổi bắt đầu trong Đại Vận 10 năm, con số 22 là con số chỉ Đại Vận từ 22 đến 31 tuổi, con số 42 chỉ đại vận từ 42 đến 51 tuổi.

Khi xem, phải xem gốc Đại vận chủ về cái gì rồi Tiểu vận một năm ăn từ gốc ấy mà ra. Thí dụ vào Đại Vận phát tài thì các Tiểu hạn hướng về phát tài, Đại vận chủ về công danh thì các Tiểu hạn hướng về công danh. Xem gốc Đại vận phải cộng cung chính và 3 cung xung hợp chiếu.

Nhìn vào lá số thấy các Tiểu vận dàn ra trên 12 cung và cứ 12 năm lại gặp lại một lần không lý các diễn biến lại diễn ra đúng như trước?? Dỉ nhiên là không phải như vậy. Vận số một năm như thế nào là do cung của Tiểu vận cho biết nhưng còn tùy thuộc vào Mệnh và Phúc đức cùng những cung chính và cũng tùy theo Đại vận nữa. Một trong những cách giải đoán vận hạn một năm là nhập các sao Tiểu Vận và Đại Vận vào mà giải đoán.

Khi xem hạn cần phải xem Lưu Niên Đại Vận nữa. Lưu Đại Vận là một cung cho biết cái hướng của vận hạn trong năm đó và tính từ gốc Đại vận giống như người tài xế lai xe hay dở thế nào. Vậy phải nhập cung Lưu Niên Đại Vận vào mà giải đoán. Xem Lưu Đại Vận cũng phải đủ cung chính và 3 cung xung hợp chiếu.

Cách tính Lưu Niên Đại Vận như sau : Người Dương Nam, Âm Nữ chiều chính là chiều thuận, bắt đầu cung Đại Vận là năm đầu của Đại Vận sang cung chính chiếu là cung kế tiếp, lùi lại 1 cung theo chiều nghịch là năm nữa rồi trở lại chiều thuận cứ mỗi cung một năm, các cung vào năm kế tiếp nhau cho đến hết các năm của Đại Vận. Tương tự như vậy cho người Dương Nữ, Âm Nam đi theo chiều nghịch.

Ví dụ cho người Dương Nam, Âm Nữ Thủy nhị cục. Đại Vận 22 tuổi ở Ngọ thì Lưu Đại Vận 22 tuổi ở Ngọ, 23 tuổi ở Tí, 24 tuổi ở Hơi, 25 ở Tí, 26 ở Sửu, 27 ở Dần, 28 ở Mão, 29 ở Thìn, 30 ở Tỵ, 31 ở Ngọ.

Ví dụ cho người Dương Nữ, Âm Nam Mộc Tam Cục. Đại vận 13 tuổi tại Tí thì Lưu Đại vận 13 tuổi tại Tí, 14 tuổi tại Ngọ, 15 tuổi Mùi, 16 tuổi tại Ngọ, 17 tuổi tại Tỵ, 18 tuổi Thìn, 19 tại Mão, 20 tại Dần, 21 tại Sửu, 22 tại Tí.

Khi phối hợp Tiểu Vận một năm với Lưu niên Đại Vận một năm để xem. Tiểu vận một năm cho biết diễn biến của sự việc, còn Lưu Niên Đại Vận cho biết kết quả của sự việc. Về cách coi phối hợp như thế này là do kinh nghiệm của tôi, không có trong sách vở Tử Vi. Nếu các bạn thấy hợp lý thì áp dụng, còn không thì cứ giữ lấy cách của các bạn vậy

 

C/ Tiểu Vận: Tiểu Vận là thời gian 1 năm của 10 năm đại hạn. Nguyệt Hạn là thời gian một tháng của tiểu hạn. Nhật Hạn là thời gian một ngày của nguyệt hạn. Thời Hạn là thời gian 1 giờ Âm Lịch của nhật hạn. Ngoài các loại hạn nêu trên, khoa Tử Vi còn đề cập đến Đồng Hạn, là khoảng thời gian một năm cần xem cho một Lá Số từ 1 tuổi đến 12 tuổi.

 

 

Cách Lưu Niên Tiểu vận

NĂM SINH Khởi năm TÝ tại Cung (Nam đi thuận, Nữ đi nghịch):
Dần – Ngọ – Tuất THÌN
Thân – Tý – Thìn TUẤT
Tị – Dậu – Sửu MÙI
Hợi – Mão – Mùi SỬU

 

Thí dụ: A – Con trai sinh năm Tý, vậy phải khởi Tý từ cung Tuất, ghi chữ Tý bên cung Tuất, rồi theo chiều thuận, ghi chữ Sửu bên cung Hợi, chữ Dần bên cung Tý, đoạn lần lượt ghi vào bên những cung liên tiếp thứ tự 12 Chi.

Thí dụ: B – Con gái, sinh năm Ngọ, vậy phải khởi Ngọ từ năm Thìn, ghi chữ Ngọ bên cung Thìn, rồi theo chiều nghịch, ghi chữ Mùi bên cung Mão, chữ Thân bên cung Dần, đoạn lần lượt giang hồ vào bên những cung liên tiếp thứ tự 12 Chi.

 

D/ Lưu ý về Tiểu Vận

Tính năm tiểu vận chỉ bắt đầu được tính kể từ ngày sinh của cá nhân, trước ngày sinh chưa được tính là nhập vận – đây là chìa khoá quan trọng trong Tửvi Trong sách vở hiện nay, chưa sách nào chỉ ra cách tính tiểu vận đúng, tất cả đều tính theo cách thông thường, ví dụ, người sinh 15/12/Tân dậu (1981) – nam giới, theo cách tính từ truớc đến nay đều cho rằng năm Ât dậu (2005) tiểu vận sẽ nằm ở cung Mùi, nhưng như vậy là sai lầm. Chỉ khi thực sự thành hình thì con người mới hội tụ đủ ngũ hành và chịu sự tác động của những quy luật tự nhiên và xã hội, nên đến ngày 15/12/ Ất dậu (2005) thì mới đủ 25 tuổi và khi đó vận mới nhập vào cung Mùi. Từ trước ngày 15/12/ Ât dậu vẫn thuộc Tiểu vận ở cung Ngọ. Tiểu vận chỉ bắt đầu được tính kể từ ngày sinh của cá nhân, trước ngày sinh chưa được tính là nhập vận

 

Ví dụ : Dương nam – 20/12/ năm Canh Thân – giờ Mùi. Tháng giêng, năm ất dậu (2005) xuất ngoại du học, theo cách tính thông thường từ trước đến nay thì tiểu vận năm Ât dậu, không gặp Thiên Mã và những sao di chuyển nhưng vẫn xuất ngoại. Nhưng thực tế vì ngưười này sinh 20 tháng 12 nên đến 20 tháng 12 năm Ất dậu mới bước sang tuổi 26, lúc đó tiểu hạn mới nhập cung Nô bộc ở Hợi. Năm Ất dậu (2005) xuất ngoại là vì tiểu hạn vẫn đang ở cung Quan lộc (Tuất) gặp Phi liêm, Thiên Mã, Hoá khoa, Thanh long… Chính vì không hiểu điều này mà nhiều người khi thấy Tiểu vận không có Hỷ thần, Long trì, Phượng các, có Hoá kỵ, Đẩu quân, Cô – Quả…mà vẫn kết hôn thì lại quy kết cho đó là kỳ cách hoặc quy ước sai về tính chất các sao, các cách cục nên sản sinh ra hàng loạt các câu phú đoán vô nghĩa, các trường phái Tửvi lệch lạc.

 

E/ Sao Lưu động: Bên cạnh những bộ Sao căn bản, Lá Số Lưu được an thêm 11 Sao lưu động mà vị trí thay đổi theo Căn và Chi của năm hiện tại. Sự luận đoán một Lá Số Lưu được dựa trên Can và Chi của năm, tháng cần xem phối hợp với Can và Chi tuổi của đương số, cùng vị trí và ảnh hưởng của 11 sao Lưu với các sao cố định đã có sẵn trong lá số. Sao Lưu động từng năm cũng đã được các trang web đưa ngay vào Lá số (những Sao có ghi chữ “L” bên cạnh).

 

  1. CÁC YẾU TỐ KHI XEM TIỂU VẬN: 

A/ Yếu tố 1- Hàng Can Của Năm Tiểu Vận

Mỗi năm có một Can, như năm nay Bính Tuất thì Can là Bính, sang năm Đinh Hợi hàng Can là Đinh. Mỗi người lại có một năm sanh, như Canh Thân thì Can của tuổi là Canh, như Kỷ Mùi thì Can của tuổi là Kỷ. Đem so sánh Can tuổi với Can của năm Tiểu Vận là biết được năm tốt hay xấu. Khi so sánh là so sánh hành. Hành của các hàng Can như sau:

 

Giáp Ất – Hành Mộc

Bính Đinh – Hành Hỏa

Mậu Kỷ – Hành Thổ

Canh Tân – Hành Kim

Nhâm Quý – Hành Thủy

 

Vậy tuổi Canh Thân có Can Canh thuộc Kim bị Can của Tiểu Vận năm nay là Bính thuộc Hỏa khắc nhập nên xấu, mọi việc gặp trở ngại. Tuổi Kỷ Mùi có hàng Can là Kỷ thuộc Thổ được hàng Can của Tiểu Vận là Bính thuộc Hỏa sinh nhập thì tốt. Mọi việc đều hưng vượng, đạt được thành quả tốt đẹp. Tuổi Nhâm Quý có hàng Can thuộc Thủy khắc của Bính Hỏa năm nay nên tuổi Nhâm Quý thắng được hoàn cảnh, phải phấn đấu thì mới đạt được thành quả nhưng phải vất vả. Tuổi Giáp Ất hành Mộc sinh xuất cho Bính Hỏa nên tuổi Giáp Ất bị mệt nhọc, lúc ban đầu thường bất lợi nhưng sau lại thành công, gọi là tiên trở hậu thành. Ta có thể lập bảng sau đây cho 10 năm tới.

 

Bảng 1 

 

Năm Vận—-Giáp Ất—-Bính Đinh—-Mậu Kỷ—-Canh Tân—-Nhâm Qúy

———————————————————————

Bính Tuất—- Mệt——- Bình——– Tốt——– Xấu——- Khá Tốt

Đinh Hợi—– Mệt——- Bình——– Tốt——– Xấu——- Khá Tốt

Mậu Tí—– Khá Tốt—– Mệt——– Bình——- Tốt——— Xấu

Kỷ Sữu—– Khá Tốt—– Mệt——- Bình——- Tốt——— Xấu

Canh Dần—- Xấu—– Khá Tốt—— Mệt——- Bình——— Tốt

Tân Mão—– Xấu—– Khá Tốt—— Mệt——- Bình——— Tốt

Nhâm Thìn— Tốt——- Xấu——- Khá Tốt—– Mệt——— Bình

Quý Tỵ—— Tốt——- Xấu——- Khá Tốt—– Mệt——— Bình

Giáp Ngọ—- Bình——- Tốt——— Xấu—– Khá Tốt——- Mệt

Ất Mùi——-Bình——- Tốt——— Xấu—– Khá Tốt——- Mệt

 

Năm nay là Bính Tuất, Mệt cho tuổi Giáp Ất, Bình cho tuổi Bính Đinh, Tốt cho tuổi Mậu Kỷ, Xấu cho tuổi Canh Tân, Khá Tốt cho tuổi Nhâm Quý. – Mệt có nghĩa lúc ban đầu có bất lợi, phải khó khăn vất vả mới thành. – Bình có nghĩa mọi việc trung bình, không có gì thay đổi nhiều. – Tốt có nghĩa là gặp cái tốt mà đã có ghi trong Đại Vận. – Xấu có nghĩa là gặp cái xấu mà đã có ghi trong Đại Vận. – Khá Tốt có nghĩa là cũng có tốt nhưng phải phấn đấu.

 

Kinh nghiệm của Cụ Thiên Lương cho hàng Can của niên vân, so sánh với hàng Can của tuổi, là quan trọng nhất, xấu hay tốt ở đó mà ra. Như gặp Đại vận suy thoái (Thiên Không) hay Đại vận chết, tai hoạ thường xảy ra vào năm hàng Can niên vận khắc Can tuổi. Gặp Đại vận tôt, việc tốt thường xảy ra vào năm hàng Can niên vận sinh cho Can tuổi.

Lấy thí dụ tuổi Kỷ, Sửu, Kỷ là Thổ. Vậy thì năm nào có hàng Can sinh cho Thổ tức là có Can Hỏa, thì năm ấy tốt, có việc tốt xảy ra: Ẩy là các năm Bính và Đinh. Hai năm cùng tốt, nhưng Đinh tốt hơn Bính, vì Đinh và Kỷ là Âm; khác Âm Dương như Bính và Kỷ, thì mặc dù Bính sinh Kỷ, cái tốt cũng kém đi.

Năm nào hành Can bị hành năm sinh khắc được, thì năm ấy cũng tốt nhưng chỉ tốt vừa, vì Mệnh khắc được Can niên vận tức là mình thắng được hoàn cảnh. Vậy đối với tuổi Kỷ Sửu, thì Kỷ (Thổ) chế ngự được 2 năm Nhâm và Quý (Thủy). Cùng Âm Dương ửù tốt hơn là khác Âm Dương. Vậy đối với Kỷ, năm Quý tốt hơn năm Nhâm.

Còn năm nào mà hàng Can khắc Can năm sinh thì năm đó gặp sung bại, khó khăn. Đối với tuổi Kỷ (Thổ), các năm Giáp, Ất (Mộc) là năm suy bại, vì Mộc khắc Thổ. Cùng Âm Dương thì xấu hơn.

Các năm mà hàng Can của tuôi sinh cho Can niên vận, thì đó là vận sinh xuất mệt nhọc, chịu đựng. Như hai năm Canh và Tân (Kim) của tuổi Kỷ (Thổ) vì Thổ sinh Kim.

Các năm mà Can đồng hành với Can tuổi, thì bình (trung bình, không xấu, không tốt).

Ta có bảng sau:

Can năm vận sinh Can tuổi Tốt nhất
Can tuổi khắc Can năm vận Tốt nhì
Can năm vận hoà Can tuổi Bình
Can tuổi sinh Can năm vận Mệt nhọc, kém
Can năm vận khắc Can tuổi : Xấu, suy bại

 

Ảnh hưởng tốt hay xấu mạnh hơn khi hai Can cùng Âm Dương, kém hơn khi hai Can khắc Âm Dương

 

Hành của cung Niên vận so với hành Mạng

Trong tử vi yếu tố Hành của cung Niên vận so với hành Mạng kém hơn yếu tố Hàng Can của niên vận so với hàng Can của tuổi  thường dùng để vớt vát nếu gặp xấu trong yếu tố Hàng Can của niên vận so với hàng Can của tuổi

Có mấy trường hợp:

– Hành của cung Tiểu vận sinh cho hành Mạng: Tốt nhất

Thí dụ: Người mạng Hỏa, tiểu vận đến cung Mão thuộc Mộc, Mộc sinh Hỏa, vậy

tốt.

– Hành của cung tiểu vận bị hành Mạng khắc: Tốt nhì

Thí dụ: trong tử vi Người mạng Thủy, tiểu vận đến cung Ngọ thuộc Hỏa, Thủy khắc Hỏa, vậy là khá.

– Hành của cung tiểu vận là hành của Mạng: Bình

Thí dụ: trong tử vi Người mạng Kim, tiểu vận đến cung Thân thuộc Kim, vậy là năm bình

– Hành của cung tiểu vận được hành của Mạng sinh (sinh xuất): xấu

Thí dụ: trong tử vi Người mạng Mộc, tiểu vận đến cung Tỵ thuộc Hỏa, Mộc sinh Hỏa, vậy là tiểu vận xâu.

 – Hành của cung tiểu vận khắc hành của Mạng (khắc nhập): xấu

Thí dụ:trong tử vi  Người mạng Hỏa, tiểu vận đến cung Tý thuộc Thủy, Thủy khắc Hỏa, vậy là tiểu vận xấu.

 

B/ Yếu tố 2- Các Năm Hạn, Năm Xung

Phần phía trên viết về đại cương của hàng Thiên Can. Bây giờ đến phần Địa Chi. Mỗi tuổi đều có năm hạn và năm xung được lập sẳn.

 

Bảng 2

 

Tuổi ———– Năm Hạn ———- Năm Xung ———- Năm Hạn Tam Tai

————————————————————————–

Tí ————- Dần, Thân ———-Tí, Ngọ ————- Dần, Mão, Thìn

Sữu ———– Sữu, Ngọ ——————————– Hợi, Tí, Sữu

Dần ———– Tỵ, Hợi ———— Mão, Dậu ———– Thân, Dậu, Tuất

Mão ———– Tỵ, Hợi ———— Mão, Dậu ———— Tỵ, Ngọ, Mùi

Thìn —————————— Thìn, Tuất ———— Dần, Mão, Thìn

Tỵ ——————————– Tỵ, Hợi ————— Hợi, Tí, Sữu

Ngọ ———- Sữu, Ngọ ——————————— Thân, Dậu, Tuất

Mùi ———– Dậu, Hợi ———— Sữu, Mùi ———— Tỵ, Ngọ, Mùi

Thân ———– Ngọ ————– Thân, Dần ———– Dần, Mão, Thìn

Dậu ——————————– Dậu, Mão ———— Hợi, Tí, Sữu

Tuất ———– Tỵ —————- Tuất, Thìn ———- Thân, Dậu, Tuất

Hợi ——————————— Hợi, Tỵ ————- Tỵ, Ngọ, Mùi

 

– Năm Xung: năm Xung là năm hay có nhừng khổ khăn cản trở, các việc trở nên khó.

– Năm Hạn: năm Hạn là năm hay có những vận hạn, những tai hoạ, lớn nhỏ còn tùy có sao nặng hay không, và có sao giải hay không.

– Hạn Tam Taỉ: hạn Tam Tai chỉ về các năm hạn gặp những hoạ hại thuộc mọi loại như thất tài, táo tài, làm ăn thua lỗ, ốm đau, tai nạn, cháy nhà, nạn sông nước, thi trượt, mất việc – tai hoạ nào thì có sao ứng vào chi tiết, nhưng cũng còn tùy tiểu vận xấu hay tốt theo yếu tố” 1 (tiểu vận tổt hoặc có sao giải cứu có thể thoát được tai hoạ).

 

Vậy khi xem vận niên cho một tuổi nào đó. Ta có thể dùng Bảng 1 và Bảng 2 đem đối chiếu so sánh mà có thể tiên đoán sơ sơ được rồi. Cách này mấy Cụ nhà mình hay dùng để coi khi hỏi tuổi của ai đó. Chỉ cần biết tuổi là các Cụ có thể nói năm này tốt hay xấu, làm ăn được hay là không được.

 

Ví dụ người tuổi Kỷ Mùi gặp năm Bính Tuất theo Bảng 1 là Tốt và theo Bảng 2 thì tuổi Mùi không gặp năm Xung và năm Hạn, vậy là tốt.

 

Người tuổi Mậu Ngọ gặp năm Bính Tuất theo Bảng 1 là Tốt và theo Bảng 2 gặp Hạn Tam Tai. Tuy nhiên, hàng Can của Bảng 1 quan trọng hơn hàng Chi của Bảng 2 cho nên vẫn cho là tương đối khá tốt. 

 

Người tuổi Giáp Dần gặp năm Bính Tuất theo Bảng 1 là Mệt và theo Bảng 2 gặp Hạn Tam Tai thì kể là một năm xấu, khi ấy không nên xúc tiến công việc làm ăn, không nên xuất vốn vì dễ gặp khó khăn đưa đến thất bại.

 

Trên đây chỉ là dự phỏng vận niên khái quát cho từng tuổi có tính cách tương đối. 

 

C/ Yếu tố 3- Yếu Tố Các Sao

 

Sau khi xem Bảng 1 và Bảng 2 để biết khái quát năm tốt xấu thế nào thì đến phần xem yếu tố sao.

Khi bàn về yếu sao thì bắt đầu từ Mệnh Thân Quan Tài Di Phúc rồi dần dần đến cung Đại vận tiếp đến Tiểu vận. Tôi ví dụ lá số như một căn nhà có nhiều phòng và trong phòng có thêm buồng nhỏ nữa. Trước khi vào cái buồng nhỏ thì phải nhìn căn nhà trước rồi mới bước vào trong, vào căn phòng rồi tìm đến cái buồng nhỏ coi như là Tiểu vận vậy.

Cùng lẽ đó, khi luận một lá số Tử vi trước tiên cần quan sát toàn cục lá số để nhận định về Mệnh – Tài – Quan tốt hay xấu, sau đó mới tiếp tục xét đến các cung khác và các đại – tiểu vận. Khi tính vận, ta thường tính đại vận 10 năm, niên vận ( tiểu vận) trong một năm. Sau khi coi sơ qua lá số đến cung Đại Vận để biết được tổng quát những sự kiện xãy ra trong 10 năm của cuộc đời thì đến phần coi Tiểu Vận từng Năm trong Đại Vận 10 năm đó.

Các Tiểu Vận hàng Năm được ghi bên cạnh mỗi Cung trên Lá số Tử Vi. Cái hay dở, tốt xấu của Đại Vận, chi phối và ảnh hưởng toàn bộ đến Tiểu Vận. Trường hợp Đại vận tốt hay đang bộc phát, thì dù Cung Tiểu Vận hàng Năm đó có bị khắc hay xấu, cũng không đáng lo ngại. Cũng trong trường hợp này, cung Tiểu Vận được nhiều cách tốt, đó là sự báo trước một năm được tốt đẹp. Trường hợp Đại Vận xấu, thì dù cung Tiểu Vận hàng năm được tốt, thì cái tốt cũng không trọn vẹn, chỉ được hưởng một phần mà thôi. Cũng trong trường hợp này, nếu Tiểu Vận hàng năm bị nhiều cách xấu xâm phạm, đây là sự báo trước những điều chẳng lành không may xãy ra trong năm đó.

Xem như thế, Cung Đại Vận ảnh hưởng quan trọng rất nhiều cho Cung Tiểu Vận hàng năm.

Cách xem giải đoán Cung Tiểu Vận hầu hết được viết trong các sách Tử Vi. Sau đây tôi chỉ viết ra vài nét chính.

a) Có biến cố tốt, trọng đại xảy ra trong năm : Đẩu Quân

b) Thi đậu, thăng tiến công danh, làm ăn tốt : Xương, Khúc, Khôi, Việt, Khoa, Quyền, Lộc, Tả, Hữu, Tứ Linh, Long, Phượng, Hổ, Cái Mã ngộ Tràng Sinh, Mã khốc khách Đào, Hồng, Hỷ, Phụ, Cáo

  1. c) Tình yêu, lập gia đình: Tả , Hữu ,Long, Phượng, Nhật, Nguyệt, Đào, Hồng, Riêu, Hỷ, Hỷ Thần, Thanh Long,
  2. d) Vận sinh con: Thai, Sinh, Vượng; Tả, Hữu; Hồng, Đào, Long, Phượng, Thiên Hỷ, Hỷ Thần, Thanh Long.

Vận đến cung Dương, có Nam Đẩu nhiều sao Dương: Sinh con trai. Vận đến cung Âm, có Bắc Đẩu, nhiều sao Âm: Sinh con gái. Cung Dương, Bắc Đẩu hay cung Âm, Nam Đẩu: Cứ theo nhiều sao Dương hay nhiều sao Âm mà đoán là sinh trai hay sinh gái. Cung Vô Chính Diệu: Xem Chính Diệu cung xung chiếu. Xem cả hai vợ chồng mới đúng.

 

  1. e) Vận tù tội: Sát Hình Phá, Liêm Hình, Liêm Phá + Sát tinh, Liêm Tham (ở Tỵ Hợi) + Sát tinh, Bạch Hổ + Đường Phù và nếu thêm Thiên Không, Không Kiếp, Cô Quả, Lưu Hà, Kiếp Sát thì càng rõ hơn…v..v.. 
  2. f) Vận phát tài, làm giàu: 

Tham Vũ Lộc đồng cung ,Song Lộc, Lộc Mã, Kiếp, Không (miếu), Hoả, Linh (miếu), Sát Phá Tham Miếu Vượng Đắc hợp với mệnh..v..v. 

  1. g) Vận tán tài: Đại Tiểu Hao (hãm), Kình, Đà, Lương thêm sát tinh ,Vận phát và tán, Song Hao (miếu)
  2. h) Vận thay đổi: Thiên Mã, Thiên Đồng…v…v.. 
  3. i) Vận ốm đau: Kinh, Đà, Không, Kiếp
  4. j) Vận lừa gạt tai hoạ nặng: Kinh, Đà, Không, Kiếp
  5. k) Vận tang thương: Khốc Hư, Tang, Điếu, Hổ, Cô, Qủa  
  6. l) Vận chết: Đại vận xấu báo hiệu sự chết, và đại tiểu vận trùng phùng, hoặc tiểu vận có những sao nặng như đại vận hoặc những sao nặng khác cộng thêm vào, cộng với hàng Can của năm khắc hàng Can của tuổi.

Dĩ nhiên khi gặp bộ sao tốt, nhưng lại phải năm mà Can Chi cũng tốt theo Bảng 1 và 2 thì mới thật tốt, nếu bộ sao mà tốt, nhưng Can Chi theo Bảng 1 và 2 mà lại hỏng thì cái tốt đấy cũng giảm mất đi.

Khi xét Lưu Niên Tiểu Vận thì cũng xem ảnh hưởng của các sao lưu động vận hành trên các cung tùy theo từng năm xem hạn. Ở đây chỉ bàn đến 9 sao lưu động gồm Lưu Thái Tuế, Lưu Tang Môn, Lưu Bạch Hổ, Lưu Thiên Khốc, Lưu Thiên Hư, Lưu Lộc Tồn, Lưu Kình Dương, Lưu Đà La, Lưu Thiên Mã.

– Lưu Thái Tuế : cũng còn gọi là Lưu Niên Thái Tuế Tinh Quân. Tiểu hạn năm nào thì Lưu Thái tuế tại cung có tên của năm đó theo thứ tự của 12 chi. Ví dụ: Tiểu hạn năm Bính Tuất thì lưu Thái tuế tại cung Tuất, lưu Thái tuế tại cung nào thì kích động cung đó cho nên phải lưu ý đến cung đó. Mọi sự việc trong năm hay hoặc dở , xem hạn đều có liên quan mật thiết đến cung có Lưu Thái Tuế. Ví dụ Lưu Thái Tuế tại Tuất là cung Quan lộc, vậy trong năm Tuất những sự hay dở xảy ra đều có liên hệ đến cong danh sự nghiệp hay công việc làm ăn. Lưu Thái Tuế gặp nhiều sao sáng sủa đẹp đẽ thì hạn tốt đẹp may mắn, nếu gặp nhiều sao xấu mờ ám thì hạn xấu.

– Lưu Tang Môn Bạch Hổ : Lưu Thái Tuế tại cung nào thì cách cung Thái Tuế 1 cung theo chiều thuận thì an Lưu Tang Môn. Lưu Thái Tuế tại cung Tuất thì Lưu Tang Môn tại cung Tí và Lưu Bạch Hổ tại cung xung chiếu với Lưu Tang Môn tức tại Ngọ. Cung nào có Lưu Tang Môn, Lưu Bạch Hổ gặp nhiều sát tinh hay bại tinh thì trong hạn sẽ gặp nhiều sự chẳng lành như ốm đau, tang tóc. Nguy hiểm nhất là Lưu Tang môn gặp Tang Môn cố định hay Lưu Tang Môn gặp Tang Môn đồng cung. Gặp trường hợp này nếu gốc Đại Vận xấu và không gặp sao giải lại mà gặp thêm nhiều sao xấu, Bảng 1 và 2 cũng xấu, tiểu hạn cũng xấu nếu không gặp sao giải thì tất ốm nặng có thể đi đến chổ mạng vong.

– Lưu Thiên Khốc Thiên Hư : Cũng giống như an Thiên khốc, Thiên hư của lá số. Từ cung Ngọ tính là cung Tí, đếm nghịch đến năm niên vận dừng ở cung nào an Thiên khốc ở đó; đếm thuận đến niên vận dừng ở cung nào an Thiên hư ở đó. Ví dụ : năm 2006 – năm niên vận là Bính Tuất. Từ cung Ngọ khởi là Tí đếm nghịch đến Tuất dừng ở cung Thân an Thiên khốc, đếm thuận đến Tuất dừng ở cung Thìn an Thiên hư. Lưu Tang Hổ Khốc Hư cho biết những việc phải lo lắng, phiền não, ốm đau, buồn thương xảy ra tại các cung mà có các sao lưu này hội tụ. Cũng như Lưu Tang Môn Bạch Hổ, nguy hiểm nhất là lưu Thiên Khốc gặp Thiên Khốc đồng cung, lưu Thiên Hư gặp Thiên Hư đồng cung thì khó tránh được bệnh nan y hay tai ương bất ngờ nếu không gặp nhiều sao tốt đẹp cứu giải. Bộ sao Tang Mã Khốc Hư có vai trò rất quan trọng trong việc luận đoán sự sống chết nữa. Đôi khi bản thân lo buồn thì do thân nhân thường có nạn, khi thân nhân lo buồn thì chính bản thân cũng do gặp nạn.

– Lưu Lộc Tồn Kình Dương Đà La : Lưu Lộc Tồn an theo Can của Niên Vận. Năm nay Bính Tuất thì Lộc Tồn an tại Tỵ, Lưu Kình Dương an tại Ngọ và Lưu Đà La an tại Thìn. Nếu Lưu Lộc Tồn gặp nhiều quí tinh , quyền tinh sáng sủa đẹp đẽ hội hợp nhất là gặp Lộc Tồn và Thiên Mã cố định thì mọi sự trong hạn đều hưng vượng hanh thông nhưng nếu gặp nhiều sát tinh và bại tinh như Không Kiếp Song Hao thì gặp nhiều bất mãn, phiền muộn , hao tán tiền bạc. Nếu Lưu Kình Dương và Lưu Đà La gặp Kình Dương và Đà La cố định đồng cung thì khó tránh được những tai nạn khủng khiếp. Đáng ngại nhất là Lưu Kình Dương hay Lưu Đà La gặp nhiều sát tinh hay bại tinh cũng gặp tai họa trong hạn nếu không gặp cát tinh cứu giải.

– Lưu Thiên Mã : dựa vào Chi của Niên Vận mà an Lưu Thiên Mã . Năm nay Bính Tuất thì an Lưu Thiên Mã tại cung Thân. Lưu Thiên mã chỉ sự di chuyển, hoạt động. Lưu Thiên Mã tại cung nào thì trong hạn có sự thay đổi hoặc có sự di chuyển liên hệ đến cung đó. Ví dụ: Tiểu vận năm Bính Tuất lưu Thiên Mã tại cung Thân là cung Phu Thê. Vậy trong năm Tuất có sự di chuyển, thuyên chuyển hay thay đổi nghề nghiệp có liên quan đến vợ hay chồng. Ngoài ra, nếu Thiên mã gặp Triệt, Thiên hình, Đại Tiểu vận xấu thì dễ xảy ra tai nạn, chia ly có liên quan đến cung có lưu Thiên mã rơi vào. Nếu Đại Tiểu vận tốt, Thiên mã không gặp Tuần Triệt thì có chuyện di chuyển, du lịch vui vẻ. 

 

Thiên Mã Lưu Niên là con sao thường đem lại sự thay đổi quan trọng và ứng nghiệm mạnh mẽ hơn cả con Thiên Mã cố định. Bởi vì đã là ngựa thì cần có sự di chuyển mới thật sự đúng với công dụng của nó chứ nếu nhốt trong chuồng hay dậm chân một chổ thì không đáng gọi là ngựa. Vì cuộc sống mỗi người luôn thay đổi cho nên nếu lấy Thiên Mã cố định chỉ an trên 4 góc của lá số để luận đoán thì sẽ bị giới hạn và không có uyển chuyển được. Tuy Lưu Thiên Mã cũng được an ở 4 góc trên lá số nhưng nó luôn thay đổi vị trí hàng năm nên được dùng để luận đoán cho tính cách thay đổi phù hợp hơn. Bởi vậy khi gặp Tiểu hạn có Thiên Mã cố định đừng vội cho ngay là có sự thay đổi về nhà cửa, xe cộ hoặc sự di chuyển về mình hoặc cho thân nhân vì Thiên Mã cố định không ảnh hưởng gì nhiều đến hạn.

Ví dụ : Cung Thiên di có Thiên Mã cố định gặp Đà La + Thiên Hình thì ra đường hay bị tai nạn xe cộ thì không lý cứ 12 năm chu kỳ lại gặp tai nạn xe cộ hay sao? Trong nhiều lá số có trường hợp như trên chỉ khi nào Đại Tiểu Hạn trùng phùng mới thấy ứng nghiệm, còn ngoài ra chẳng hề nhìn thấy tai nạn nhưng hể khi nào nhìn thấy Lưu Thiên Mã gặp ngay cung đó thì y như là có chuyện gì đó xãy ra dù Đại Vận có lệch sang cung khác. Điều này cũng không có gì lạ vì sự thay đổi của con người giống như chiếc xe dù bất luận là xe gì nếu mà không chạy thì làm sao mà xảy ra tai nạn được.

Bởi vậy khi xem vận niên nên chú ý đến Lưu Thiên Mã nhưng đôi khi có Lưu Thiên Mã nhập hạn cũng đừng vội cho rằng có sự liên hệ đến thay đổi ngay vì còn tùy thuộc vào Đại Vận cũng như Mệnh Thân nữa. Ví dụ : Khi thấy Lưu Thiên Mã nằm ở cung Quan Lộc thì nghỉ thế nào cũng có sự thay đổi về nghề nghiệp, công danh địa vị nhưng nhìn lại Đại Vận này toàn là những yếu tố cố định bền vững , thêm vào đó Mệnh Thân của đương số không nằm trong yếu tố hay môi trường bị thay đổi thì phải suy luận sang việc khác. Chẳng hạn như khi Đại Vận có Thiên Phủ + Lộc Tồn hội Khoa Quyền Lộc Long Phượng, Thai Tọa mà không vướng vào Thiên Đồng, Thiên Mã cố định, Thiên Không, Địa Không thì chẳng có gì thay đổi như thế thì Lưu Thiễn Mã sẽ ứng với chuyện khác. Thường thường ứng vào xe cộ dùng vào nghề nghiệp của mình, nhưng lớn hay nhỏ, đẹp hay xấu còn tùy thuộc vào Khôi Việt, Đào Hồng Hỉ . Thực ra Thiên Mã không những chủ về thay đổi nhưng còn tượng trưng cho cả chân tay hoặc phương tiện di chuyển như xe cộ, tàu bè, xe hỏa, máy bay nữa.

Có trường hợp được luận đoán cho một người nhập hạn ở cung Thiên Di có Lưu Thiên Mã hội Đà la + Thiên hình nhưng đương số không bị tai nạn xe cộ cho mình nhưng lại gây tai nạn xe cộ cho người khác và phải bồi thường thiệt hại. Bởi vì còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác trong đó có những phi tinh khác nên mới có thể đi đến kết luận như vậy. Ngoài ra, Đại Vận của đương số quá tốt đẹp, có sao cứu giải đồng thời cung Mệnh và cung Tật Ách cũng khá vững vàng, nhưng năm đó Lưu Niên Đại Vận nhập Tiểu Vận hội cùng Hóa Lộc tại Mệnh khiến cho đương số phải bồi thường cho người đi đường. Cũng trong trường hợp này, nếu đương số gặp Đại Vận xấu thì mình bị thương tích và tốn tiền chạy chữa thuốc men dù cung Mệnh, cung Tật Ách có tốt đi chăng nữa.

Đặc biệt trong trường hợp Lưu Thiên Mã gặp Tuyệt hay Tuần đồng cung thì con Thiên Mã này lâm vào đường cùng, bị bao vây như nhốt trong chuồng xung quanh có hàng rào bao bọc. Điều này ám chỉ ban đầu mọi việc bế tắc, thất bại nhưng không có nghĩa là bế tắc hoặc thất bại mãi. Vì con Ngựa có cách này nó rất khó chịu, cố vượt qua chướng ngại vật để nhảy ra ngoài. Do đó, có lúc nó sẽ nhảy 1 cái ” Chóc ” vượt hàng rào sang cung ở góc kế tiếp mà nếu con ngựa nằm đó hợp với bản mệnh thì lần tới làm lại lần nữa sẽ thành công như xin đi xuất ngoại, đi du học, đi xa nếu lần đầu thất bại thì lần tới sẽ được.

– Lưu Lộc Tồn: khi Lưu Lộc Tồn nhập vào Tiểu hạn thì đừng vội cho là có tiền ngay. Nhưng phải cần xem xét Tài Lộc đến ai mà là người được hưởng và tới bằng cách nào. Mình sẽ được hưởng khi Lưu Lộc Tồn nhập vào hạn liên quan đến những cung trực tiếp với mình như Mệnh Thân, Quan Tài Phúc Điền và còn phải ứng hợp với 1 Đại Vận thuận lợi nữa hoặc ít ra Mệnh Thân có yếu tố hoặc môi trường để được hưởng.

Trường hợp Lưu Lộc Tồn nhập vào cung Phụ Mẫu hay Huynh Đệ thì ít khi ta hưởng được tài lộc, nếu có thì may mắn lắm được hưởng gián tiếp khi cung nhập hạn có thêm Đào Hồng Hỷ, Thiên Quan, Thiên Phúc Quý Nhân, được như thế thì Cha Mẹ hay Anh Chị Em cho chút ít để xài.

Lưu Lộc Tồn gặp Lộc Tồn cố định không tốt bằng cách xung chiếu như thế tiền bạc sẽ dồi dào hơn vì do tiền cứ luân chuyển làm tiền sinh ra tiền, chứ hai lộc gặp nhau ở một cung thì giống như tiền bỏ vào quỷ tiết kiệm cùng lắm chỉ ăn được tiền lời thôi. Ngoài ra Lộc Tồn cần gặp Lưu Thiên Mã chứ không cần gặp Thiên Mã cố định vì Lộc Tồn tượng trưng cho tiền bạc hàng hóa nếu đem chất lên một chiếc xe không chạy đi đâu thì thật là vô ích.

Có trường hợp Lưu Lộc Tồn đóng cung Tài Bạch gặp Lộc Tồn cố định ở cung Phúc Đức xung chiếu là những cung liên quan trực tiếp đến mình mà năm đó vẫn chẳng có chút lộc nào để hưởng là vì Mệnh có Địa Kiếp hội với Phá Quân, tưởng năm đó số mình được hưởng nhưng lại không phải vì cả năm đi lãnh tiền về để phân phát cho thiên hạ mà mình trái lại chẳng hưởng được đồng nào.

Ngoài ra còn có trường hợp Đại Vận có Song Hao hội Thiên Không, Phá Toái, tương phùng với Tiểu Vận có Lộc Tồn cố định và Lưu Lộc Tồn là những yếu tố để hưởng lộc và nó được đóng vào những cung liên quan đến mình nhưng lại bị vô hiệu hóa hoàn toàn. Hai sao Lộc này chuyển hướng ứng vào công việc làm ăn như cứu xét, chấp thuận các hồ sơ của các nạn nhân để đòi bồi thường hoặc các thân chủ cần giúp đỡ vay tiền. Bởi đó, dù đương số làm việc vất vả cả năm nhưng chẳng có chút tiền nào trong tay là vậy.

– Lưu Kình Dương: khi thấy sao Kình Dương hầu hết mọi người đều sợ dù nó đóng cố định hay nhập hạn vì bản chất của nó dể đưa đến chuyện xui xẻo chẳng lành. Nhưng theo kinh nghiệm cho thấy dù nhập hạn gặp Kình Dương cố định chưa có gì đáng ngại cho lắm trừ khi có thêm nhiều yếu tố ác sát tinh khác tăng cường. Ngược lại, khi Tiểu hạn có Lưu Kình Dương đóng ở 4 cung Tí Ngọ Mão Dậu dù không có thêm yếu tố xấu khác vẫn thường có chuyện không hay xãy ra , nặng hay nhẹ còn tùy thuộc vào sự chế hóa của cung nhập hạn hay từ cung tam hợp mà ảnh hưởng đến chính mình hay cho thân nhân.

Ta có thể ví sao Kình Dương cố định như một tên trộm vác cuốc đi đào mệt quá đang ngủ , còn Lưu Kình Dương như một tên trộm khác đang thức vác cuốc đi đào đất ăn cướp vàng . Như vậy, tên trộm đang ngủ không nguy hiểm bằng tên trộm đang thức để đào đất. Tuy nhiên, khi Lưu Kình Dương gặp Kình Dương cố định như tên trộm đang thức làm cho tên trộm đang ngủ tỉnh dậy cùng họp sức khiến cho sức phá hoại càng mạnh mẽ ác liệt thêm. Còn trường hợp Kình Dương cố định gặp Kình Dương xung chiếu thì đừng tưởng rằng sự nguy hiểm giảm bớt đi nhưng trái lại còn đáng lo ngại hơn vì cả hai đang ở thế gọng kìm hoặc 2 mặt giáp công khó có đường mà tẩu thoát. Còn nếu Lưu Kình Dương ở cung xung chiếu không gặp Kình Dương cố định thì vẫn cẩn thận như thường vì ảnh hưởng của nó vẫn mạnh mẽ dù ngay cả khi nó nhập hạn ở vào 1 trong cung tam hợp thì cũng vẫn có ảnh hưởng chút đỉnh. Nếu chẳng may Tiểu hạn rơi vào cung Thìn Tuất tức La Võng Chi Địa hội thêm Cô Quả Hình Linh thì thực là đại họa.

Khi Lưu Kình Dương nhập hạn coi thử có ảnh hưởng đến mình hay cho thân nhân thì nhận định như sau :

Ví dụ Tiểu hạn đi đến cung Tật Ách có Lưu Kình Dương ngay tại cung này. Nếu Đại Hạn không nhìn thấy liên quan đến cung Tật Ách và Mệnh thì đương số gần như an toàn nhưng cha mẹ, anh chị em bị ảnh hưởng vì cung Phụ Mẫu ở thế xung chiếu và cung Huynh Đệ ở thế tam hợp. Nếu thấy cung Phụ Mẫu có nhiều yếu tố khác xấu hơn cung Huynh Đệ như bị Lưu Tang Môn, Lưu Khốc Hư thì cha mẹ gánh chịu. Cũng trong trường hợp này nếu Mệnh đương số xấu, Đại Hạn cũng xấu mà Lưu Kình Dương nhập hạn vào những cung liên quan đến mệnh thì đương số lãnh đủ hết ảnh hưởng của Kình Niên và ít khi cha mẹ hoặc anh chị em bị chịu lây.

Trong trường hợp Tiểu hạn đi đến cung Điền Trạch nếu có Lưu Kình Dương nhập hạn mà Đại Tiểu hạn không trùng phùng thì dù mệnh đương số không tốt cũng không đáng lo ngại vì cung Điền trạch không gây trực tiếp đến cho bản Mệnh mà trái lại gây ảnh hưởng đến cung Tử Tức và cung Huynh Đệ. Lúc đó chỉ cần coi cung Tử Tức và Huynh Đệ cung nào chịu ảnh hưởng khắc xấu trong năm mà xét đoán. Nếu cung Tử Tức có Kình Dương cố định trong khi cung Huynh Đệ có Quan Phúc, Hóa Khoa, Khôi Việt thì chắc chắn con cái bị ảnh hưởng nguy hiểm còn anh chị em thì không việc gì. 

 

  1. MỘT PHƯƠNG PHÁP XEM TIỂU VẬN: 

“Xem tử vi mà nói chung chung mấy cung tài bạch, quan lộc … thì cũng chán. Đương số thường mong mỏi được nghe dứt khoát chuyện gì xảy ra với mình và vào lúc nào. Tuy nhiên, khi xem như vậy, thầy bói thường phải giải quyết những mâu thuẩn giữa các bộ sao. Ví dụ như sau:

Hai anh đi thi tuyển vào khóa học sau đại học. Thi xong bèn vác lá số đến gặp thầy xem có đậu hay là trượt vỏ chuối. Tử vi nổi tiếng có khả năng xem chi tiết, dỉ nhiên chuyện đậu rớt phải xem được.
Một anh trong tiểu hạn có âm dương phản bối (dương tại thìn, âm tại tuất) tối mò lại thêm Không Kiếp Hỏa Linh. Quá ngon cơm, thầy có thể phán ngay, “vỏ chuối rồi ông ạ”.

Người thứ 2, thì có Hóa khoa xung chiếu nhưng cũng có Không Kiếp, phục binh, thiên la, và thêm mấy sao chỉ buồn rầu, thị phi như tang, hổ, điếu khách … đoán đậu thì cũng run chân vì với phục binh và không kiếp như vầy có khi làm đúng mà thầy vẫn chấm trật, còn mấy thằng ám tinh làm cho mờ tối nữa. Còn đoán rớt thì … có Hóa khoa mà thi không đậu sao?! Giá mà có cách nào lượng hóa để xem Hóa khoa có thắng nổi đám kia không thì hay biết mấy!

Trong trường hợp như vậy, tôi thấy người ta thường làm một vài trong những cách sau:
– Đổ thêm sao vào trong lá số: thế nên nhiều người không hài lòng với 9 sao lưu sẳn có mà thêm vào rất nhiều sao lưu. Nhiều người còn đi xa hơn, có cả một “lá số ẩn” dưới lá số chính. Cách này có khuyết điểm là, nếu may mà vớ thêm một sao hoa khoa nữa thì quá hay rồi, nhưng nếu sui thì càng thêm nhức đầu vì nhiều sao quá.

– Thêm lý thuyết: vận dụng thêm nào là ngủ hành sinh khắc giữa bản mệnh và sao, giữa sao và cung …. Cái này lại đụng cái kẹt là không biết cái nào mạnh hơn cái nào.
– Xem bổ xung cung quan và đại vận. Cách này chính tắt nhưng cái kẹt là, giả sử trong cung quan của đương số vô chính diệu ngộ tuần, tức công danh khá nhưng vất vả chật vật, thì đâu có chắc là sóng gió trong học hành, có khi là sóng gió trong công việc, quan hệ cấp trên cấp dưới thì sao. Hoặc là, trong đại vận có Quốc ấn, hay Phong cáo, hay Đường phù chứng tỏ có thêm bằng cấp thì cũng chắc gì anh ta đậu ngay năm nay, năm sau đậu vẫn kịp nhận bằng trong đại vận thì sao?!
– Pha trộn thiên văn: xem sao chủ mệnh trong thời điểm thi có mạnh không. Cái này thì chỉ cho thấy, vào thời gian thi, anh này xung sức, phong độ cao, may mắn chứ chưa chắc 100% là sẽ đậu.
– Ăn gian một chút, có thể nhân chuyện nếu đậu phải đi học xa nhà mà nhìn quanh quẩn xem có dịch Mã không. Hoặc, nếu thời gian học là 3 năm thì xem 3 năm sau xem có dấu hiệu gì là nhận bằng không. Kiểu xem gián tiếp này tất nhiên cũng không chắc.
– Nếu là bạn bè thân, hỏi anh ta xem 12 năm trước làm ăn ra sao. Cách này cũng không chắc vì đại vận khác nhau và nếu đương số còn trẻ quá thì 12 năm trước … không tin cậy.

Tất nhiên là còn cách nữa là dẹp hết lá số, móc ra 3 đồng tiền để lấy quẻ dịch nhưng đấy không còn là tử vi nữa.
Vấn đề là như vậy. Người xem (không phải tôi) cuối cùng phán là đậu và đã đúng. Anh này đậu khá cao điểm. Dù sao, qua chuyện này cũng thấy là người xem tử vi phải có cách tiếp cận sao cho không vướng những mâu thuẩn trên hoặc là có sách lượt rỏ ràng mỗi khi gặp tình thế như trên.

Nhìn chung, mỗi người có sách lược riêng của mình và đây chính là phần gây tranh cãi nhiều nhất trong giới xem số vì sách lược nào thì cũng có lúc đoán trật lất.

Tất nhiên tôi không thể nào biết hết các cách giải quyết vấn đề kiểu như trên, chắc là có người có cách xem ưu việt hơn nhiều. Tôi trình bài ra đây cách làm của tôi chỉ nhằm tham khảo chứ không có ý nói nó hay. Tôi quen với cách này và không có dịp kiểm chứng các cách khác thì làm sao mà biết nó hay hay dở.

Trước tiên, gom hết các sao liên quan (sẽ giải thích như thế nào là liên quan sau) tới tiểu vận muốn xem thành một tập hợp. Tìm trong tập hợp này một bộ sao chỉ sự kiện, tạm gọi là sự kiện chủ đạo. Ví dụ: thấy có Mả Tang Đào hay Hồng ngộ Không, có thể đưa ra sự kiện là người hôn phối bỏ ra đi. Sau đó, loại các sao này ra khỏi tập hợp và lập lại quá trình tìm kiếm với phần tập hợp sao còn lại …để tìm những sự kiện phụ. Rốt cuộc, ta có một danh sách các sự kiện với một hay vài sự kiện chính và một số sự kiện phụ. Nói thì nghe ghê vậy chứ tất nhiên danh sách không quá dài.

Sau đó, bằng tướng thuật, hỏi han đương số hay bằng cách xem khác kiểm tra xem liệu danh sách này có đúng không. Nếu không, phải chọn sự kiện chủ đạo khác. Ví dụ với Mả Tang mà có thêm Nhật hay Nguyệt mờ tối, thêm Hỏa Linh thì có thể giả định sự kiện chủ đạo là tang cha mẹ.
Và như thế, cuối cùng sẽ có một danh mục các sự kiện lớn nhỏ đáng chú ý trong năm. Cách này có các khuyết điểm sau:

– Phải sưu tầm và nhớ những tập hợp sao chỉ sự kiện, mà trong sách không có nhiều. Sách “Tử vi phân loại” của Kim Hạc là một nguồn đáng tham khảo.
– Chọn tập hợp sao liên quan và nhớ chúng trong đầu là việc cân não. Ngoài sao trong đại hạn, có khi phải tính cả sao trong mệnh thân, cung cường. Chính vì lẻ này mà tôi làm ra chương trình tử vi có hiển thị bình chú các tổ hợp sao để giảm phần cân não trong lúc xem.
– Nhiều khi có những sao mạnh, có khả năng có mặt trong hai sự kiện khác nhau, chính tinh thì nhiều khi bao trùm làm cho việc phân định thành khó khăn. Trong trường hợp này nam bắc đẩu tinh và hành của sao phải được xem xét kỹ.
– Khi không xác định đúng được sự kiện chính, toàn bộ lý luận sẽ xụp đổ.
– Nhiều người có những tiểu hạn êm đềm, sáng đi làm, tối về ngủ, không có sự kiện nào!
– Khi được nhiều sự kiện quá, thân chủ có thể nghĩ thầy bói đang bắn đạn chùm, đoán bừa cho nhiều thì thế nào cũng có cái đúng.

Tuy nhiên nó cũng có vài ưu điểm:
– Không bị mâu thuẩn như đã nêu ở đầu bài.
– Chỉ rỏ những sự kiện có thể xảy ra.
– Vì ta có vài danh sách sự kiện theo các hướng khác nhau, ta có được chữ “nếu” trong tử vi, điều mà chỉ có trong các cách xem quẻ dịch. Nếu áp dụng cho đại vận chứ không phải tiểu vận thì cái “nếu” này càng có ích.

(Sưu tầm từ nhiều nguồn)