LÁ SỐ NGHÈO KHỔ TRONG TỬ VI

LÁ SỐ NGHÈO KHỔ TRONG TỬ VI

Định cục nghèo khổ

Cung Mệnh không có cách cục phú quý, chính tinh lại không miếu Vượng, hai sao Không Kiếp chia ra thủ ở hai cung Tài Bạch và Phúc Đức, hơn nữa, chính tinh đồng cung cung không Vượng, là chủ về một đời nghèo khổ; nếu cung Thân hoặc cung Mệnh là cát, cũng chủ về người này tiêu xài phung phí, xem nhẹ tiền bạc, tiền đến rồi tiền đi. Cung Thân hoặc cung Mệnh gặp hai sao Không Kiếp cũng vậy. Hai sao Không Kiếp chia ra thủ cung Mệnh và cung Thân, là người nghèo khổ, nếu lại thêm Cô Thần và Quả Tú, thì cuộc đời cô quả nghèo khố. Địa Không và Địa Kiếp giáp cung Mệnh, càng hung.

Chính tinh ở cung Mệnh thất hãm còn gặp Không Vong (Chính Không thì nặng, Phó Không thì nhẹ), Địa Không, Địa Kiếp, là sinh bất phùng thời.

Lộc Tồn, sao Hóa Lộc tọa mệnh Thân, gặp Địa Không, Địa Kiếp, sao Hóa Kị, Không Vong đến xung phá, đây gọi là “Lộc gặp xung phá, trong cát có hung” (thường thường là trước thành sau bại, trước giàu sau nghèo). Hành hạn gặp nó cũng vậy (hai sao Địa Không, Địa Kiếp cùng đối càng hung).

Thiên Mã gặp Không Vong, ắt chủ về bôn ba vất vả mà chẳng thu hoạch được gì. Ví dụ như người sinh năm Giáp, Chính Triệt Không ở Thân Dậu, nếu an cung Mệnh ở Thân, thì Thiên Mã gặp Không Vong (gặp Chính Không thì nặng, gặp Phó Không thì nhẹ); gặp lưu niên Tuần Không cũng vậy.

Nhật Nguyệt thủ cung Mệnh ở hãm địa, gặp Cự Môn đồng cung hoặc chiếu, là số nghèo khổ.

Vũ Khúc và Liêm Trinh chia ra thủ cung Mệnh và cung Thân, hai sao lạc hãm còn thêm các sao sát kị mới đúng (Liêm Trinh rơi vào cung hãm mới là sao tù).

Phá Quân thủ cung Mệnh ở hãm địa, số cô độc nghèo khổ; Phá Quân và Văn Khúc cùng thủ cung Mệnh ở Mão, một đời là bần sĩ.

Tứ sát tinh thủ cung Mệnh hay cung Thân, gặp Tham Lang, Kình Dương giao hội, còn các sao cát thì thất hãm.

An cung Mệnh ở Tí, đại vận hoặc lưu niên đến cung Đại Hao, còn gặp các sao ác sát kị, là đúng.

Ba cung Phụ Mẫu, Phu Thê, Tử Nữ có các sao Không Kiếp, sát kị, là mạng sư tăng, đạo sĩ (không phải mạng cô độc nghèo khổ).

Hai cung Mệnh Thân có Liêm Trinh, Phá Quân, Vũ Khúc và Hóa Kị, lại gặp Địa Không, Địa Kiếp, Kình Dương, Đà La đến giáp cung, định là hạ cách, chủ về cô độc bần hàn. Nếu Lộc Tồn ở đất sinh Vượng, tuy có Kình Dương và Đà La giáp cung, vẫn không phải là hạ cách. Ngoài ra, Địa Không và Địa Kiếp không giáp cung cùng lúc, tam phương còn gặp sao Hóa Quyền Lộc, cũng không phải là hạ cách, nhưng gặp vận hạn có lưu sát tinh là chủ về phá tán, thất bại.

Cung Mệnh không có chính tinh, chi gặp Không Kiếp tọa thủ, tam phương không có cát tinh đền cứu, chủ về không tụ tài lộc, là mang nghèo khổ, phiêu bạt Nếu bản cung và tam phương có cát tinh, là không đúng. Bản cung lại gặp sát tinh, phần nhiều chủ về yểu mạng.

“Sinh phùng bại địa, phát dã hư hoa; tuyệt xứ phùng sinh, hoa nhi bất bại”: ví dụ như người Thủy nhị cục an mệnh tại Tỵ, ở đất Tuyệt, là đúng; nếu có sao hành Kim đồng cung đến Sinh, là được cứu. Bốn cung Dần Thân Tỵ Hợi là đất Tứ Tuyệt, mà cũng là đất Tứ Sinh.

Phá Quân ở cung Quan Lộc, lại gặp sao Hóa Kị và Kình Dương, còn Đại Hao ở cung Tài Bạch, là mạng ăn xin. Người sinh năm Dần Ngọ Tuất mệnh tọa cung Ngọ, người sinh năm Tỵ Dậu Sửu mệnh tọa cung Dậu, người sinh năm Hợi Mão Mùi mệnh tọa cung Mão, người sinh năm Thân Tí Thìn mệnh tọa cung Tí, đều đúng.

Hai cung Mệnh (hoặc Thân) tật gặp Cự Môn, Kình Dương, Đà La cùng thủ, thì bôn ba vất vả, suy tàn nghèo khó, phá sạch tổ nghiệp.

Cô quân tại dã: tứ sát tinh thủ cung Thân hoặc cung Mệnh, chính tinh lại hãm địa, là đúng.

Vận hạn gặp Thất Sát, Lộc Tồn, Thiên Mã ở đất Không Vong, là đúng.

Trong cung Mệnh có Liêm Trinh, Thất Sát, Tham Lang, hoặc Phá Quân thất hãm, còn gặp sát tinh, là mạng nghèo khổ.

Trên đây là những cách cục nghèo khổ, nếu hành vận cũng xấu thì nghèo khổ; nếu vận hạn có nâng đỡ, thì vẫn không lo rầu chuyện ăn mặc (mệnh suy hạn tốt, là cây khô Mộc gặp mùa xuân).