CÁC BƯỚC GIẢI ĐOÁN LÁ SỐ TỬ VI CHI TIẾT

CÁC BƯỚC LUẬN GIẢI MỘT LÁ SỐ TỬ VI – XEM TỬ VI

Bước 1: Lập Lá số tử vi

Căn cứ vào giờ, ngày, tháng năm sinh của đương số, chúng tôi sẽ lập một lá số tử vi bằng phần mềm  do chúng tôi nghiên cứu và phát triển. Sau đó dựa vào hình tướng và tính cách để xác định lại giờ sinh. Nếu giờ sinh không ứng sẽ luận hạn để xác minh.

Bước 2: Luận đoán tổng quan lá số

Dựa vào Lá số tử vi  sẽ luận giải tổng quan về tính cách, cuộc sống, tài vận, tình duyên,… một cách dễ hiểu nhất .

Bước 3: Luận đoán 12 cung trên lá số

Luận giải chi tiết 12 cung: Mệnh, Phụ Mẫu, Phúc Đức, Điền Trạch, Quan Lộc, Nô Bộc, Thiên Di, Tật Ách, Tài Bạch, Tử Tức, Phu Thê, Huynh Đệ.

Bước 4: Luận đoán đại hạn 10 năm

Khái quát mỗi 10 năm cuộc đời những diễn biến chính, những sự việc quan trọng trong từng thời kỳ và đưa ra lời khuyên với từng giai đoạn.

Bước 5: Luận đoán hạn năm, hạn tháng

Dự đoán những diễn biến, sự việc xảy ra trong các năm thuộc đại vận hiện tại và luận đoán các sự kiện diễn ra trong từng tháng năm.

Bước 6: Trả lời các câu hỏi

Sau khi luận đoán xong Lá số tử vi, quý vị có thể hỏi thêm  các câu hỏi khác. Dựa vào Lá số sẽ có lời khuyên và cách hóa giải phù hợp

Phương pháp giải đoán lá số Tử Vi

Bài viết trích từ cuốn: “Số Tử Vi dưới mắt khoa học” của tác giả Hà Thúc Đồng

Nếu lấy số Tử Vi để ai cũng có thể lập thành một lá số trong vài phút được thì đoán một lá số là điều khó, phải suy nghĩ tường tận, cân nhắc từng sao từng cung, xem xét ngũ hành âm dương đầy đủ mới có thể đoán mà không thể sai lầm nhiều.

Ðộc giả nên nhớ có những lá số thật dễ đoán, ai xem cũng đoán được ngay và đại khái đoán như nhau, đó là số của những người bình thường, đời sống đều đều, không sôi nổi không có gì đặc biệt.

Chín mươi phần trăm các lá số ta xem đều thuộc về loại này.

Nhưng có những lá số thật khó đoán, hoặc là thật tốt hoặc là thật xấu, xem không không kỹ đoán vội vàng là dễ bị lầm lắm lắm. Những lá số lạ như vậy là của những người khác thường, có cuộc đời khác đời của số đông, người xem số mỗi khi thấy lá số như vậy cần thận trọng lắm lắm.

Lại có những lá số mới trông thì có vẻ như bình thường, nhưng trong đó có một vài điểm nghịch lại với cách cục chính, ấy là những lá số khó đoán nhất.

Thời thường các thầy số, cầm một lá số lên nhìn qua là đủ biết tính tình tư cách địa vị người xem rồi. Vì nghề nghiệp sinh sống họ thường dựa vào tính của người xem mà đoán theo chiều hướng ý thích hay sở nguyện của người đó, để khách hàng vừa ý. Do sự vừa ý đó khách hàng sẽ cho là thầy giỏi đoán hay, ca tụng làm quảng cáo cho thầy và thưởng tiền cho thầy nữa. Lối đoán ấy là lối đoán thương mại, người mới học chớ có tin những lời đoán ấy là có thật mà mất công tìm hiểu vô ích.

Ðại khái như thầy có đoán cho một bà là: Năm nay, ông nhà phải dứt khoát với bà nhỏ thì con bà mới thi đỗ, là một điều số Tử vi không có cách nào biết được.

Số đông các thầy số, hay các người học Tử vi một cách nông nổi đều hay đoán theo lối thiển cận hay là hiểu các câu phù theo nghĩa đen cho nên thường hay đưa đến sự nhầm lẫn.

Có một đôi trai gái yêu nhau, nhưng nhân duyên trắc trở, vì họ hàng dèm pha, mới rủ nhau đi xem số. Ông thầy xem số người con gái đoán rằng: “Sao Thai lại gặp đào hoa, tiền dâm hậu thú mới ra vợ chồng”. Cô gái tin là thật, hiến thân cho người tình để cho hợp với số hầu cuộc hôn nhân có thể thành tựu được. Nhưng sau đó kết quả là chàng trai lại thành vợ chồng với người khác.

Một đôi vợ chồng thuộc giới phú quý cùng đi xem số cho hai đứa con. Ðứa lớn cung phụ mẫu có: “Tử Phủ Vũ Tướng Khôi Việt” ông thầy đoán cậu này phải là con nhà sang trọng quyền quý. Cả hai vợ chồng chịu là đúng. Ðến đứa nhỏ cung Phụ, Mẫu “Ðà la Kiếp sát” toàn sao xấu ông thầy cả quyết nói là con nhà hạ tiện. Ông chồng cười nói: “Cả hai cháu đều là con tôi cả, xin thầy xem lại cho” ông thầy và cả quyết: “Nếu là con ông thì chắc là con vợ bé hay nàng hầu”. Cũng may bà vợ ngồi ngay đó, và đứa con chính là con của bà ta.

Ông chồng lại cải chính: “Không đây là con nhà tôi mà”. Ông thầy quá tin ở những cái mà ông cho là kinh nghiệm nên nói luôn: “Nếu mẹ là vợ cả thì chắc bố phải là người vi tiện…… nghĩa là loại tài xế hay bồi bếp gì đó thôi”.

Ðộc giả chắc không tin hai câu chuyện trên là vì có thật, vì nếu thật thì ông thầy số kia ngu biết bao. Sự thật là không có, nhưng thực ra có nhiều thầy đã quyết đoán nhiều câu ngu dại hơn thế nhiều. Ðưa hai thí dụ trên ra đây là cốt để độc giả nếu có tập đoán số cho mọi người để học hỏi và rút kinh nghiệm, xin nhớ là:

  • Chớ bao giờ thấy đúng các trường hợp trong sách hay trong phú mà vội đoán y như sách hay phú.
  • Chớ bao giờ hiểu các câu cổ nhân lưu truyền lại bằng nghĩa đen, vì sự thật có khi lại trái với lời phú đoán nữa.

Phải ý niệm được việc đoán số một cách minh bạch như vậy, hãy nên xem và đoán số.

Số Tử Vi mặc dầu là hay thật, đúng thật, nhưng cái hay đó có cái đúng đó chỉ giới hạn trong một phạm vi nào mà thôi. Càng suy ngẫm càng tìm hiểu ngiên cứu kỹ về lý thuyết, càng xem và đoán nhiều lá số những người đã đứng tuổi để phối kiểm sự việc với lý thuyết hầu rút nhiều kinh nghiệm, độc giả sẽ hiểu dần phạm vi chính xác ấy được đến đâu. Dưới đây xin nhắc lại qua phương pháp đoán số để những ai chưa biết cách có một phương châm mà theo.

Cầm một lá số lên, trước hết ta phải:

  1. A) XEM ÐẠI THỂ

1) Xem cách cục để định cho lá số đó thuộc loại nào.

Cách cục là xem: các sao đóng ở mệnh phối hợp với 3 cung chính chiếu và xung chiếu, các sao ở 2 cung giáp các sao ở cung hợp chiếu.

Xong Mệnh thì xem đến Thân cũng như vậy.

Mệnh cung là định số mạng thọ yểu sang hèn.

Thân cung là định cho cuộc đời hưởng thụ.

Phải cà 2 hợp với nhau mới thành ý nghĩa. Chớ nên đoán riêng từng cung.

2) Xem sinh khắc ngũ hành giữa cục và bản mệnh, để xem cuộc đời sẽ vững vàng hay mỏng manh…… thành bại sẽ dễ dàng hay trắc trở, kết quả sẽ lớn hay nhỏ, lâu bền hay ngắn ngủi.

3) Xem âm dương giữa bản mệnh và cung mệnh, xem có lợi hay có hại.

4) Xem chính tinh những sao nào miếu sao nào hãm, sao nào bị triệt tuần, sao nào ở vào cường cung nhàn cung để định những điểm chính yếu của tính tình mạng số của con người. Xem trợ tinh bàng tinh hung tinh ác diệu cái nào mạnh yếu ra sao, đắc vị hay lạc vị thế nào để định xem đại thể của cuộc đời.

5) Xem đại hạn đi lên hay đi xuống, có liên tục hay đứt quãng, để biết sự phù trầm thọ yểu hoạn nạn ra sao.

6) Xem các điểm đặc biệt của lá số để rồi tìm cách phối hợp vào đời và vận hạn của con người. Ðó là mấy điểm chính cần xem trước để cho ta có ý niệm đại khái về con người.

  1. B) XEM MỆNH CUNG VÀ THÂN CUNG

Xem Mệnh và Thân cung là để định rõ các chi tiết về mọi phương diện: thọ yểu, giầu nghèo, sang hèn, vận mệnh, họa phúc, tính tình, hình dạng, hiền ngu, thiện ác và tất cả những đặc điểm để có thể biết rõ hơn về mạng số và cuộc đời của con người, hầu xác định lại ý niệm nói ở trên.

Thực ra muốn xác định một lá số ta phải xem đủ cả 12 cung nhất là Phúc đức và Tài bạch, Tật ách v.v…… những cung chính yếu phải xem kỹ, cả đại hạn tiểu hạn cũng cần phối hợp tất cả lại mới có thể đoán rõ được số mạng người. Ơû đây nói thứ tự là để người xem số xem tuần tự như vậy rồi mới đoán, chứ không phải xem đến đâu đoán đến đó ngay.

Bất cứ đoán về việc gì ta cũng phải xem trọn lá số đã, xong rồi mới có thể chuyên chú vào một điểm nào đó sau.

Một người đưa cho ta một lá số nhờ xem có lấy vợ giầu không, mà ta xem ngay cung thê rồi đoán luôn là dễ bị sai lầm lắm.

Xem Mệnh Thân và các cung là ta phải xem đến từng sao một cho thật kỹ rồi phải xem sao ấy sáng hay tối, có bị ngũ hành của cục (tức là các sao vòng Tràng sinh) của bản mệnh của các sao khác chế khắc gì không, có được sự phù trợ của những sao tốt không, có bị hung tinh ác sát xung sát ở tứ phía không, có đủ bộ không (các sao âm dương phải có đủ bộ mới có ảnh hưởng) có bị hay được bàng tinh ảnh hưởng gì không v.v……

Tất cả tinh vi đúng hay sai ở lá số là đoạn này.

Người xem phải cân nhắc nhiều phương diện cho kỹ và nhất là phải hiểu phải nhớ tính cách của từng sao mới được.

Ðấy là tài nghệ của từng người.

  1. C) XEM 12 CUNG

Ðể đoán số, hai cung Mệnh và Thân không đủ.

Cổ nhân có nói: Xem cho đàn ông tiên khán Phúc đức, hậu khán Mệnh Thân, xem cho đàn bà thì cốt yếu lại là ở 2 cung Phu và Tử, đó là điều dĩ nhiên rồi. Có người xem số lại chỉ chuyên xem cung giải ách, vì đó là chuyện hoạ phúc của cả đời.

Dù sao, xem số cho ai thì cũng phải xem hết cường cung đã mới đủ để đoán về mệnh. Cường cung của đàn ông là: Mệnh Thân Quan lộc Tài bạch Thiên di Phúc đức.

Cường cung của đàn bà là: Mệnh Thân Phu Tử Tài Ðiền Tật.

Vì vậy cho nên xem số ta phải xem cung Mệnh cung đối cung tam hợp vì những cung này đều là cường cung cả, liên quan một cách mật thiết đến cuộc đời và mạng số của con người. Còn các cung kia như Phúc Nô Huynh Phụ ta chỉ xem các sao đóng ở trong cung đó thôi, chứ không phải xem cả đối chiếu, củng chiếu, nhị hợp như cung Mệnh, như nhiều người vẫn tưởng lầm. Lý do rất dễ hiểu là sự tương quan giữa các cung này nhiều khi không thể có được. Tỉ như cung Tử tức có con nhiều hay ít, tốt xấu không phải là do cung Nô bộc hay Ðiền trạch mà ra.

Mười hai cung được sắp xếp trong lá số theo thứ tự như ta thấy là vì sự tương quan giữa cung ấy và cung Mệnh gần hay xa, ít hay nhiều.

Cho nên xem các cung này ta phải hiểu là “ảnh hưởng” của các vị ghi trong cung đó như Cha mẹ Anh em, Bè bạn vân vân, đến người có số ra sao, chứ không phải đây là những lá số của các vị đó vậy.

Nếu trông các sao đó mà đoán số cho các người đó thì với một người có 10 con, cả 10 đứa sẽ bắt buộc phải có cung Phụ mẫu y hệt như nhau. Ðó là điều mà ai cũng biết là không thể có được, và có thể kiểm chứng được dễ dàng.

  1. D) XEM VẬN HẠN

Xem vận hạn thì nên nhớ đại hạn 10 năm có thể coi như cung mệnh ta chuyển sang đó, nên cũng phải xem cả các cung đối chiếu giáp hợp v.v…… Tiểu hạn trái lại chỉ cần xem một cung năm đó và hai cung tam hợp thôi. Xem về hạn, xin lưu ý độc giả về hai điểm quan trọng sau này:

1) Các sao chỉ có ảnh hưởng khi đủ đôi đủ bộ thôi.

Vì vậy khi xem đại hạn cần phải tính sao thủ mệnh để phối hợp với các sao đại hạn cho đủ đôi đủ bộ.

Tỉ dụ: Mệnh ta có Cơ Nguyệt Ðồng thiếu mất Lương. Nếu cung đại hạn có Thiên lương thì ta có hợp cách Cơ Nguyệt Ðồng Lương và đoán theo cách này.

Xem Tiểu hạn cũng vậy, phải tính đến cả các sao Ðại hạn và Mệnh.

Tỉ như: Ðại hạn có Ðịa không, trong vòng 10 năm vẫn làm ăn tấn tới, đến năm tiểu hạn có Ðịa kiếp thì Không Kiếp mới đủ bộ, và năm ấy mới bị cháy nhà trộm cướp hay tai họa gì do đôi hung tinh này gây ra. Xem vận hạn cần phải biết tính của các sao về phương diện này là vì lẽ ấy. Như Tử vi có tính cách giải nguy mang điều mừng đến, Liêm trinh mang tai nạn đến v.v……

2) Trong việc xem vận hạn Tuần Triệt giữ một vài trò rất quan trọng. Sau Triệt bao giờ cuộc đời cũng như thay đổi hẳn, các cái may rủi hoạ phúc cũ sẽ như biến hết. Vào Tuần thì mọi sự trắc trở khó khăn sẽ dồn dập đến.

Nói vắn tắt về phương pháp như để gọi là hướng dẫn các bạn mới mà thôi, còn muốn có thể đoán được các bạn phải biết hết tính sao và như vậy nên đọc thêm các sách về Tử vi. Cuốn sách này vốn không lấy mục đích ấy làm chính nên không chép lại phần tính sao ấy, mặc dầu có chép lại cũng không dài là bao.

Tác giả muốn để độc giả tự làm lấy phần việc ấy bằng cách đọc những bài phú sau đây, mà tìm ra tính nết các sao, cái nào hung cái nào cát, cái nào chủ về gì cái nào hợp với cung nào, kỵ với sao gì v.v…… tất cả đều có thể tìm thấy trong mấy bài phú cả.

Cổ nhân lưu truyền lại cho ta các bài phú và các bài dạy tính sao, được chép lại trong các sách viết tay. Vì viết tay nên phần tính sao mỗi người ghi một khác, không lấy đâu làm chuẩn đích, nên không biết thế nào là đúng thế nào là sai.

Các bài phú trái lại là những bài văn bài thơ có vần có điệu, nên người ta truyền khẩu cho nhau rất dễ, ít khi có sai lầm. Vì vậy nên học số Tử vi tất cả căn bản đều chỉ là mấy bài phú. Ðó mới thật là của cổ nhân lưu truyền lại.

Còn các điều viết trong các sách không biết đâu mà tin, nhiều tác giả bịa đặt thêm bớt vào cho vui chuyện, cho dài giòng, chỉ đưa ta đến sự lầm nếu quá tin vào họ.

 

Để giải đoán lá số tử vi, cần thực hiện qua các bước sau:

 

  1. Quan sát và phân tích bố cục của các cung và các sao

 

+ Thế đứng của các chính tinh: Sao nào đi với sao nào để thành cặp, vị trí của các cặp sao Âm Dương, Tử Phủ, Thất Sát, sao chủ mệnh. Miếu hãm của các sao.

 

+ Thế đứng của các ngôi: mệnh tài quan nằm ở đâu, phu thê ở đâu…

 

+ Quan sát bố cục của các trung tinh, phụ tinh:

 

Trung tinh gồm các sao như: Khôi Việt Tả Hữu Tứ Hoá, Xương Khúc, Thanh Long, Quang Quý, Thiên Hình Thái Tuế, Kiếp sát, Lộc tồn, Lục sát ( Kình Đà Linh Hoả Không Kiếp), Thiên Mã.

 

Tuy nói là trung tinh, nhưng nhiều khi nó quyết định cục diện của lá số còn mạnh hơn cả chính tinh.

 

Kế đó phải kể tới vòng Tràng sinh, rồi Khốc Hư, Tang Hổ, và các sao chỉ bộ phận trong cơ thể để đoán biết về đặc điểm ngoại hình, bệnh tật.

 

Từ sự quan sát bố cục lá số này, cần phải rút ra được:

 

– Điểm nổi bật nhất của lá số: Mấu chốt nằm ở cung nào, sao nào, cách cục nào

 

– Chỗ tốt ở đâu, chỗ xấu ở đâu.( Các ưu điểm và nhược điểm)

 

– Mức độ tốt xấu của từng yếu tố, ví dụ mức độ thành công về sự nghiệp, mức độ hạnh phúc trong gia đình…Nếu không nhận biết được mức độ thì không thể có kết luận khi giải số.

 

  1. Xem xét riêng lẻ từng cung, từng sao

 

Về các cung: đầu tiên là cung mệnh, sau đó là cung hạn. Các cung còn lại thì tuỳ vào vấn đề muốn biết mà xem xét kỹ lưỡng hơn: ví dụ muốn hỏi về con cái thì căn cứ chính là cung Mệnh và cung Tử. Nhiều quan niệm coi cung Phúc là quan trọng khi xét bất cứ yếu tố nào của lá số, theo tôi thì không hẳn.

 

Về các sao: Phải xem chính tinh trước khi xem trung tinh và phụ tinh, nhất là chính tinh thủ trong những cung quan trọng đối với vấn đề cần luận đoán.

 

Từ chính tinh mà đánh giá tác dụng của trung tinh, cũng như từ sự kết hợp của chính tinh, phụ tinh, cung, ta mới xét đến các tiểu tinh ( phụ tinh).

 

Ví dụ: Tả Hữu phò tá cho Tử Phủ, Tam Minh phò tá cho Nhật Nguyệt. Tôi giỏi phải gặp vua hiền, mọi thứ phải đặt đúng chỗ của nó thì mới có tác dụng.

 

Ở bầu thì tròn ở ống thì dài, đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy, nên không phải chỉ một sao hay một cung quyết định lá số hay một vấn đề, mà là tương tác phối hợp giữa các sao, các cung.

 

Tương tự như vậy, cung mệnh và cung hạn phải được tính làm đầu trong mọi luận giải.

 

Nếu không xác định được thứ tự ưu tiên, thứ tự quan trọng thì việc giải đoán tử vi sẽ rơi vào một mớ bòng bong, và dẫn đến mất độ chính xác.

 

  1. Tập trung vào từng câu hỏi, từng vấn đề

 

Nghĩa là phải xác định được câu hỏi là gì để tập hợp và xử lý dữ liệu. Chỉ một câu hỏi nhưng có khi phải xem xét cả một lá số.

 

Sự tập trung và dứt khoát trong giải quyết vấn đè sẽ giúp luận giải được chính xác, vi tế hơn.

 

  1. Định giờ sinh

 

Thực ra đây là thao tác quan trọng hàng đầu trước khi trả lời bất cứ câu hỏi nào đặt ra cho một lá số. Tuy nhiên vì việc làm này không phải dễ, nên tạm thời PC không trình bày trong khuôn khổ cuốn sách.

 

Với các bạn đọc có trình độ , hoàn toàn các bạn có thể xác định được và nên xác định giờ sinh. Sau khi trải qua ba bước noí trên, thì có thể xác định được tới 70% giờ sinh đã chọn là đúng hay sai.

 

Thao tác định giờ sinh được dựa chủ yếu trên:

 

– Hình dáng của đương số

 

– Đặc trưng về thân nhân

 

– Các sự kiện quan trọng trong từng niên hạn ( năm), nguyệt hạn (tháng)

 

Người giải đoán số cần có kinh nghiệm và sự nhạy cảm cần thiết. Có lúc chỉ nhờ có 1 sự kiện, một dấu vết để biết là có đúng giờ đó hay không.

 

Biểu tượng của các sao

 

  1. Chính tinh

 

– Âm dương biểu tượng cho đôi mắt, thần thái, khả năng tình dục, sự thể hiện tình cảm và nhân sinh quan.Có cả khả năng điều hoà nữa.

 

– Tử Phủ biểu hiện dáng người, cân nặng, thế đi đứng, oai phong.Lục phủ ngũ tạng.

 

– Tham Lang thể hiện nhu cầu vật chất, nhu cầu tình dục, lòng tham. Phần thân dưới, những bộ phận nở nang như mông, ngực.

 

– Thiên Cơ thể hiện trí tuệ, khả năng tính toán, tổ chức.Tượng là cái trán, phần mày mắt.

 

– Vũ Khúc: Khả năng nghệ thuật, tài chính. Cái mũi, phần lườn, cánh tay.

 

– Cự Môn: Khả năng kháng cự, khả năng ngôn ngữ.Miệng, hậu môn, bộ phận dưới.

 

– Liêm trinh: Lập trường, cá tính, uy nghiêm. Phần xương cốt trên khuôn mặt, thần thái uy nghiêm trên toàn bộ cơ thể.

 

– Thiên tướng: Khả năng lãnh đạo, sai khiến người khác, năng lực quân sự. Cái đầu.

 

– Thiên đồng: Lượng mỡ trong người, phần dưới hai gò má ( thịt bao xương quai hàm), cái bụng.

 

– Thiên Lương: Lương tâm. Cột sống. Nhân trung.

 

– Thất sát: Tính cương quyết, dám làm dám chịu, có thể trả đũa hay sát phạt. Hàm răng. Xương và tính chất của bàn tay.

 

– Phá quân: Tính quật cường, làm phản, lập dị. Ấn đường và hai chân mày.

 

  1. Trung tinh, phụ tinh

 

– Tả Hữu:Khả năng nhường nhịn, vị tha, thích ứng. Đôi vai, đôi tay.

 

– Hoá Khoa: Tư duy tri thức .Bộ não, sự đầy đặn rộng rãi của trán.

 

– Hoá Quyền: Khả năng quyết định, làm chủ. Gò má.

 

– Hoá Lộc: Khả năng buôn bán, kiếm lợi từ thiên hạ.Tóc, râu

 

– Hoá Kỵ: Tính đố ky, nghi ngờ, đối nghịch. Cái lưỡi, đôi môi.

 

– Khôi Việt: Vẻ sang trọng. Khu vực đầu mặt.

 

– Xương Khúc: Tình cảm, năng lực tưởng tượng. Xương, khớp.

 

– Kình Dương, Mộc dục: Bộ phận sinh sản của nam nữ.

 

– Thai: Tử cung

……

 

Một vài cách cục

 

  1. Giàu

 

– Thái Âm, Vũ Khúc, Tham Lang, Thiên Phủ, Hoá Lộc, Thiên Mã, Lộc tồn được sinh vượng hay đóng tại mệnh mà hợp cách.

 

– Các sao tài tinh nói trên hội tụ cùng nhau.

 

– Tham ngộ Hoả Linh

 

– Tài, Phúc, Điền tốt.

 

– Riêu Lộc Trù đều vượng và bổ trợ cho mệnh.

 

  1. Sang

 

– Âm Dương Xương Khúc Khôi Việt Khốc Hư đắc địa, phối hợp.

 

– Chính tinh hãm mà nhiều phụ tinh mạnh mẽ hỗ trợ, đặc biệt là Tam hoá.

 

– Vô chính diệu đắc cách: có trụ cột ( triệt tuần hay hung tinh đắc), có cát tinh chầu.

 

– Thanh Long Lưu hà, Thanh Long Hoá Kỵ, Tứ Linh đắc thời, đắc địa.

 

– Tử Vi, Phá Quân có nhiều trung tinh phò tá hợp cách.

 

– Sinh Vượng ở nơi vô chính diệu hay đất thuỷ mộc.

 

  1. Uy quyền

 

– Thiên Tướng, Vũ Khúc, Thất Sát có khí thế mà ứng với mệnh hay hạn.

 

– Cô, quả, đẩu quân, thái tuế

 

– Hoá Quyền.

 

– Mã Khốc Khách, Hoa cái.

 

– Khôi Việt vượng và có cặp.

 

  1. Hạnh phúc

 

– Đào Hồng Hỉ, Thiên Trù, Hoa cái, Thanh Long, Thiên Riêu, Âm Dương, Long Phượng,Thai Toạ, Quang Quý.Những sao này chỉ niềm hạnh phúc trong tâm hồn. Nếu chúng đóng tại cường cung, nếu được sinh vượng và hội cùng nhiều cát tinh thì hạnh phúc được hưởng sẽ rõ nét, ngược laị thì dễ bất hạnh.

 

-Cung Mệnh và cung Phúc có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định trạng thái tâm lý chính của đương số. Hai cung này tốt thì dù đời có nhiều gian khổ, đương số vẫn cảm nhận được nhiều hạnh phúc.

 

  1. Sức khoẻ, tuổi thọ

 

– Cách xấu: Xương Khúc với Hoá Kỵ, Cơ với Hoả Linh, Lương Tham với Kình, Nhật Nguyệt với Kình Đà Riêu Kỵ, vô chính diệu mà không có người trông giữ ( triệt tuần, thanh long, lục sát vượng), Tử Phủ với kiếp không thêm sát tinh…

 

– Cách tốt: Chính tinh miếu địa, sát tinh không khắc với chính tinh và bản mệnh. Vòng tràng sinh tốt. Phúc tinh được vượng và ở cường cung.

 

– Sao Bệnh, Tuyệt, Kiếp sát và Hoá Kỵ đặc biệt không tốt cho sức khoẻ. Có nó thì tiêu chí bệnh tật tai nạn rõ nét, và dai dẳng.

 

Bàn về 12 cung

 

  1. Cung mệnh

 

Mệnh cung là chủ thể của cả lá số tử vi. Phái tử vi phúc tông cho rằng cung Phúc là quan trọng nhất, nhưng không phải vậy. Cung Mệnh mới là cái gốc để xét đoán mọi vấn đề trong lá số.

 

 

Khi quan sát cung Mệnh người ta xét các yếu tố sau:

– Vị trí của cung mệnh trên lá số: nằm ở cung nào trong số 12 cung từ Tí đến Hợi. Nhị hợp, tam hợp, xung chiếu, giáp các cung nào.

– Các sao đóng trong mệnh, chiếu hợp vào mệnh. Có xem xét cả miếu vượng của sao.

– Tương tác giữa các sao có ảnh hưởng, giữa sao với cung mệnh, giữa cung mệnh với bản mệnh ( gồm mệnh nạp âm, can chi tuổi).

 

 

Thông tin có được từ cung Mệnh:

– Cách cục chính của đương số

– Hình dáng, tính cách, tài năng

– Một phần sự thành công trong cuộc đời: về tiền tài địa vị hay hôn nhân, thậm chí cả con cái.

– Mối tương quan giữa bản thân đương số với thân nhân và với xã hội xung quanh.

 

 

Thế nào là một cung mệnh tốt?

Cung Mệnh tốt là một cung mệnh thể hiện sự cường vượng, nhưng lại có sự hài hoà với các cung khác. Mệnh nam thì cần chỉ huy được các cung khác, thu hút được nguồn lực từ tam phương tứ chính., còn mệnh nữ chủ yếu cần nhu thuận, giúp đỡ cho các cung khác đặc biệt là cung chồng và cung con, tức cung Phu và cung Tử.

 

Như vậy một cung Mệnh tốt thường sẽ có:

 

– Chi của cung hoà hợp với bản mệnh: tương sinh hay ngang hoà với mệnh nạp âm. Nếu chi của cung trùng với chi của tuổi, thì rất tốt trong việc hỗ trợ cho những người mệnh yếu. Đây cũng là một chỉ dấu thuộc quý cách.

 

– Sao chính tinh thủ mệnh được sinh vượng, có ứng hợp với bản mệnh thì càng tốt.

 

– Cung mệnh hội tụ được các quý cách, phú cách. (Tham khảo các sách tử vi đã xuất bản).

 

Vì có ảnh hưởng tới nhiều cung trong lá số nên mệnh mà có Thất Sát thì thường có tính khắc với thân nhân.

 

  1. Cung Phúc

 

Người ta thường coi cung Phúc là nói về họ hàng của đương số, và phúc phần của đương số.

 

Tôi trong nghiên cứu thấy rằng ý nghĩa về họ hàng không được chính xác lắm. Vì trong một họ có người giàu người nghèo, người tốt kẻ xấu, chênh lệch đã rất nhiều. Anh em lá số còn khác nhau huống chi cả dòng họ.

 

Ý chủ yếu của cung Phúc là thể hiện sự may mắn, được che chở hay không. Nếu một cung Phúc tốt thì đương số dễ gặp thuận lợi, an nhàn, được quý nhân giúp đỡ. Phúc vì tam hợp với Phu Thê nên tất nhiên có ảnh hưởng quan trọng tới người chồng, người vợ. Ngoài ra cung Phúc còn có ý nghĩa hỗ trợ để xem về con cái và bản mệnh thọ yểu của chính đương số.

 

Những sao đóng trong cung Phúc có ý nghĩa chỉ ra hạnh phúc và phúc đức của đương số phụ thuộc vào điều gì. Như cung Phúc có Đào Hồng sinh vượng thì hạnh phúc có được về tình duyên là rất đáng kể. Nếu Hoá Kỵ ở cung Phúc thì thường phải lao tâm khổ tứ, trắc trở tình duyên.

 

  1. Cung Tài

 

Cung này chủ tiền bạc và các vấn đề liên quan tới tiền bạc của đương số. Nó không phải là cung duy nhất quyết định giàu nghèo như nhiều người lầm tưởng.

 

Nó cũng có thể là một cung chỉ tài năng, năng lực và công việc. Bởi vì những thứ này đều liên quan chặt chẽ tới tiền bạc. Ý nghĩa tài bạch không chỉ là tiền, mà bao hàm cả tài năng, năng khiếu.

 

Cung Tài tốt thì nên có tài tinh như Vũ Khúc Thái Âm Song Lộc, Trù Riêu, Linh Hoả hợp cách…. Có hung tinh cũng có thể tốt chứ không phải luôn luôn xấu, có điều hung tinh thì kiếm tiền hay dựng nghiệp sẽ vất vả hơn người khác.Thêm các sao có tính tích trữ, che giấu thì thường là tốt hơn, vì lộ ra thì dễ bị tranh cạnh.

 

Tài cung toàn sao rực rỡ sáng sủa nhưng lại không có tài tinh, tài tinh trong lá số bị phá hãm, thì chỉ giàu bề ngoài mà thực chất nghèo, hay ít của chìm.

 

  1. Cung Phu hay Thê

 

Cung này chỉ người hôn phối. lại chỉ cả tính chất, kết quả của mối quan hệ giữa đương số với người khác pháì.

 

Cho nên một cung Phu Thê quá xấu thì kết hôn mấy lần vẫn chẳng được hài lòng. Còn cung Phu Thê tốt thì tuy vẫn có thể hai lần kết hôn, nhưng đều lấy được người ưng ý, cảm nhận được hạnh phúc và thuận lợi trong hôn nhân.

 

Cung Phu Thê không thể xem tách biệt mà phải kết hợp cùng cung mệnh, Nhật Nguyệt và các sao tình duyên để đoán.Tuy nhiên cung này đặc biệt có ý nghĩa khi luận hạn, hay xác định các điểm đặc biệt, sự kiện đặc biệt về người hôn phối, như năm kết hôn, v.v….

 

Hôn nhân ngoài đời rất đa dạng, từ nguyên nhân và hoàn cảnh lấy nhau lẫn đời sống gia đình. Do vậy nếu nhìn một cung Phu Thê xấu cũng chưa đoán quyết được là bỏ nhau, hay sát phu sát thê. Có thể chỉ đơn giản là lúc kết hôn bị nhiều phản đối, chung sống đồng sàng dị mộng…. Người phụ nữ ngoại tình có thể là rất tồi tệ đối với người đàn ông này, nhưng lại là chấp nhận được trong mắt người đàn ông khác.

Cho nên ý nghĩa của cung Phu Thê biến chuyển linh hoạt, tuỳ vào phối hợp trong lá số mà xác quyết .

 

  1. Cung Tử Tức

 

Tử tức cung không những chỉ về con mà còn nói lên khả năng sinh sản, sinh dục nói chung. Vì lẽ đó mà khi các sao Thiên Hình Kiếp sát xuất hiện, thì người mẹ dễ phải mổ xẻ lúc lâm bồn.

 

Cung này được phép tốt hơn cung mệnh hay bất cứ cung nào trong lá số, theo đúng tinh thần của câu : “con hơn cha là nhà có phúc”. Cung Tử tức tốt có nghĩa là các sao đúng cách cục, thể hiện ý nghĩa thấp nhất là con cái dễ nuôi, có hiếu, cao hơn thì là con cái phú quý làm rạng rỡ tổ tông.

 

Quan niệm truyền thống thường ưa có quý tinh và phúc tinh trong cung mệnh. Quyền tinh, sát tinh nếu xuất hiện nhiều thì có thể là hoạ, có thể là phúc, vì nó nếu không chỉ việc khó nuôi con, con hư hỏng thì đe doạ đến một cung mệnh yếu đuối: đây là đứa con khắc cha mẹ.

 

Quý tinh là gì? Là Nhật Nguyệt sáng sủa, tam hoá, long phượng, cái mã, khôi việt… Phúc tinh thì có Đồng Lương, Thiên phủ, Tứ đức, Quan Phúc, Quang Quý…

 

  1. Cung Điền Trạch

 

Có câu: An cư thì mới lạc nghiệp. Ấy vậy mà người ta lại cứ đi coi Điền là một nhược cung.

 

Cung Điền chỉ nhà cửa, tài sản lớn, sự nghiệp lớn . Thời nào thì thời, quan to tất cái nhà thường cũng phải to, còn người nghèo thì nhà rách vách nát, thậm chí không có nhà . Thế nên cứ ngắm cung Điền thì biết được nhiều việc về sự giàu có hay nghèo hèn. Các ông quan to, giám đốc, lãnh đạo cung Điền phải rất tốt, nếu không thì khó mà tạo dựng được sự nghiệp, có tạo được thì cũng chỉ là danh tiếng suông, không có thực lực.

 

Cung Điền hay nhất là có tài tinh, có sao chủ sự sang trọng đẹp đẽ như Long Phượng Thai Toạ. Ngoài ra nên có sao chủ sự uy nghiêm,

sự hỗ trợ, sự bảo vệ, như Tả Hữu, Quan Phúc… để ý nghĩa về sự nghiêp được tốt đẹp.

Người có cung Điền tốt thì trong sự nghiệp có thể có những đầu tư vào lĩnh vực lớn như xe hơi, bất động sản. Cung điền suy yếu thì dù các cung khác có tốt, cũng chỉ nên làm các lĩnh vực gắn với sản phẩm nhỏ .

 

  1. Cung Quan Lộc

 

Cung này ý nghĩa chính yếu nhất là nói lên công việc của đương số, những công việc mà đương số có duyên làm, có thể làm. Ngoài ra còn có ý nghĩa chỉ cấp trên, cơ quan.

 

Đương nhiên một cung Quan tốt thì công việc dễ dàng, thuận lợi. Có nhiều sao chủ quyền quý tài năng thì chuyên môn cao, có thể có khả năng lãnh đạo. Ý nghĩa quyền chức không thực sự quyết định tại đây. Chính vì vậy ta thấy ngoài đời có nhiều người chẳng giỏi về chuyên môn nhưng vẫn có ghế, có quyền thế đàng hoàng, đó là vì các cung như Điền, Di, Mệnh, Nô phối hợp tốt. Trường hợp Quan tốt và các cung kia cũng tốt thì địa vị có được do thực taì. Quan tốt cũng thường là công chức, làm cho chính quyền, nhà nước. Còn Quan không tốt thì là dân tự do nhiều hơn, và vẫn có thể thành đạt.

 

Tuỳ vào ngũ hành, tính lý và biểu tượng của các sao trong các cung Mệnh Tài Quan mà quyết định về nghề nghiệp, cung Phu Thê có thể bổ túc thêm với ý nghĩa tạo cách cục, hay chế hoá cho Quan Lộc.

 

Cung Quan còn thể hiện những gì đương số nhận được từ xã hội, từ người trên, cấp trên, cái này người ta gọi là ” được lộc”. Chữ Lộc ở đây không chỉ có nghiã hẹp là tiền tài.

 

  1. Cung Thiên Di

 

Cung này chỉ khả năng thích ứng với xã hội và hoạt động trong xã hội . Với ý nghĩa đó thì nó sẽ gồm cả: khả năng kết giao bè bạn, lãnh đạo, thích ứng hay chỉ huy hoàn cảnh…. Và như vậy rõ ràng là một cung Di tốt sẽ góp phần quan trọng tạo nên thành công của cuộc đời. Người Di tốt thì khả năng giao tế đa số tốt.

 

Trong một ý nghĩa nhỏ hơn, nó chỉ chung về các hoạt động di chuyển, di cư của người đó trong đời. Vì vậy có vai trò quan trọng khi điểm hạn và xem có sống xa quê hay không.

 

Cũng từ các lý luận trên, ta suy ra cung Di tốt là cung Di có nhiều sao chủ sự linh hoạt, bén nhạy, mềm mỏng. Vậy thì Khôi Việt, Nhật Nguyệt, Tấu thư, Xương Khúc, Hoá Khoa … hẳn nhiên là tốt. Một cung Di quá tốt cho đương số lời khuyên: li hương lập nghiệp. Mã Khốc Khách Lộc Trường Sinh là một cách tốt đặc biệt cho cung Di.

 

  1. Cung Tật Ách

 

Có quan điểm cho là Tật ách thể hiện bản chất con người , còn cung Mệnh chỉ là vỏ ngoài. Lý luận này có nhiều điểm mâu thuẫn.

 

Rõ ràng có những người thể hiện không khác nhiều với bản chất.

 

Do đó cung Tật ách chỉ là chỉ chung về bệnh tật tai ách mà thôi. Ngay cả đám ma thế nào cũng chưa chắc được, cái chết và đám ma không nhất thiết nằm ở cung Tật ách. Tuy cung này không phải là cường cung, nhưng vì bệnh tật và tai ách gây ra nhiều khổ cực, lo lắng cho đương số, nên cung Tật xứng đáng được xem xét kỹ càng.

 

Trong cung này, quyền tinh quý tinh gì cũng chẳng quan trọng, chỉ quan trọng về các sao biểu tuợng cho bộ phận cơ thể và các phúc thiện tinh. Dĩ nhiên ai cũng muốn khoẻ mạnh và ít tai tật. Vậy thì trong cung này, cần nhất là sự sinh vượng và tránh sát tinh. Chính tinh vượng địa, Quang Quý Quan Phúc Tứ Đức lúc nào cũng được chào đón. Triệt Tuần tại một cung Tật vô chính diệu cũng là cách tốt.

 

Muốn đoán cụ thể hơn thì từ tượng hình của các sao mà luận, không có gì phức tạp.

 

Có một vai trò bổ sung khác của cung Tật. Nếu cách của cung Mệnh là người che giấu, hay là người giả dối, thì người ta có thể suy ra tính cách bản năng của anh ta trong cung Tật ách. Nhưng ý nghĩa này rất mờ nhạt, hiếm khi phải sử dụng.

 

  1. Cung Phụ Mẫu

 

Phụ mẫu cung chủ yếu chỉ vai trò của cha mẹ trong đời sống của đương số, nói hình tượng hơn là ta nhìn cha mẹ của đương số qua lăng kính của chính đương số . Chứ không nhất thiết là nó có thể cho thấy chính xác cuộc đời của cha mẹ.

 

Trường hợp cung Phụ mẫu rất đẹp thì thường là cha mẹ khá, tất nhiên phải phối hợp với Nhật Nguyệt . Nhưng khi cung Phụ mẫu xấu thì chưa chắc cha mẹ đã kém, mà chỉ là đương số không nhận được hỗ trợ của cha mẹ, không được hưởng lộc hay tình yêu từ song thân. Còn có ý nghĩa khác: khắc phụ mẫu.

 

Nằm trong tam hợp Tử Phụ Nô, xung chiếu với Tật ách, Phụ mẫu có tác dụng phối hợp để luận giải những cung này.

 

  1. Cung Huynh Đệ

 

Huynh đệ cung chỉ số lượng anh em, sơ lược về cuộc đời của anh em và quan hệ của anh em với đương số. Cung này không quan trọng lắm.Nếu có nhiều cát tinh có khi còn là ý nghĩa xấu, bởi như vậy là mất hết tinh hoa của các cung khác.

 

  1. Cung Nô Bộc

 

Cung này chỉ bạn bè, người dưới quyền, vợ bé. Hoàn toàn không có ý nghĩa: nếu cung Nô vượng cung mệnh suy tức là mình làm tôi tớ cho người khác.

 

Việc mình làm thuê hay mình hèn kém là do các cung Mệnh Tài Quan Điền Di chi phối, chứ không phải từ cung Nô.

 

Cung Nô cần nhất là tính hoà thuận, hỗ trợ, nên có Tả Hữu là hợp nhất, không nên gặp hung sát tinh và các sao chỉ bất hoà như Hoá Kỵ, Phá Điếu. Cung này mà nhiều sao tình duyên chứng tỏ đời sống tình ái phong phú, nhiều chi nhiều nhánh, hoặc phóng túng .

 

Vài sao quan trọng

 

  1. Thái Dương, Thái Âm

 

Sao Thái Dương chủ về người cha, người chồng, con trai, yếu tố dương trong cơ thể đương số. Ngược lại Thái Âm chủ người mẹ, người vợ, con gái, yếu tố âm.

 

Âm Dương cả bộ cho biết hệ thần kinh, khả năng điều hoà, thích ứng, mối quan hệ vợ chồng, đồng thời còn là biểu tượng của đôi mắt.

 

Trong số các chính tinh thì Âm Dương có vẻ ngoài dễ nhìn nhất. Nét đẹp của Âm Dương sáng sủa, thanh tú. Nếu cùng với các cát tinh, đào hoa tinh thì nghiêng nước nghiêng thành.

 

Hai sao Âm Dương nếu được sinh vượng, hội cùng nhiều cát tinh phò tá là một sự may mắn lớn . Trong trường hợp này thì dù công danh tiền bạc, thân nhân hay hạnh phúc nói chung của cuộc đời đều được thêm phần tốt đẹp. Người có Âm Dương như vậy không bao giờ là kẻ bần cùng, cuộc sống được mức trung bình trở lên.

 

  1. Hoá Khoa

 

Thật chẳng ngoa khi các nhà nghiên cứu đi trước tôn xưng Khoa tinh là Đệ nhất giải thần. Nhiều sao lúc cát lúc hung, nhưng riêng Hoá Khoa lúc nào cũng ban phúc. Đã có Hoá Khoa ở Quan hay Mệnh, hay Di, thì bất luận phú quý hay không, đều là người có trình độ, có hiểu biết, tính tình không đến nỗi tồi tệ.

 

Nếu Hoá Khoa được hợp cách, kết hợp cùng các sao tốt và cách cục tốt, thì nó đưa đương số đến tuyệt đỉnh vinh quang. Ý nghĩa của Khoa tinh không thiên về quyền chức, mà thiên về sự sang cả, học vấn, sự thông thái, thuộc hàng quý nhân văn chức trong xã hội. Sự thành công của Hoá Khoa trong trường hợp này là thành công đi kèm với công nhận và nổi tiếng, chứ chẳng thể là trọc phú hay anh hùng áo vải.

 

Cũng chính vì vậy mà Khoa tinh không nên bị hãm địa hay gặp Triệt Tuần, để đảm bảo tài năng được thi thố và thừa nhận, thi cử dễ dàng.

Khoa tinh còn biểu thị cho khả năng nghiên cứu chuyên môn, cho người đa tài, hiểu rộng, có tầm ảnh hưởng đến nhiều người.Khi giải hoạ nhờ Hoá Khoa, tai nạn được giải đi do chính nỗ lực hay phúc đức của đương số tạo ra, chứ không phải do tiền bạc, do người thân, v.v…Vì lẽ đó Khoa tinh đồng thời cũng đem lại tính cách tự chủ, có lập trường, có tự trọng mà không phải là ương ngạnh.

 

  1. Thanh Long

 

Tuy thường bị coi là một sao nhỏ nhưng Thanh Long lại khá quan trọng.

 

Nguyên do là sao này chỉ khả năng linh tính, giác quan thứ 6. Nó đồng thời biểu tượng cho quyền uy của người lãnh đạo, của bậc thần linh, với biểu tượng con rồng. Những phản vi kỳ cách nhiều trường hợp là do Thanh Long, những điểm xấu được giải hoá một cách khó hiểu cũng lại do Thanh Long.

 

Bạn cứ kiểm lại những lúc mình may mắn do được linh tính, do trực giác, thì sẽ biết tác dụng của Thanh Long hữu ích như thế nào.

 

  1. Đào Hồng

 

Hai sao này luôn phải để ý trong quá trình giải số. Vì tình yêu và hôn nhân quyết định một phần lớn cảm giác hạnh phúc hay bất hạnh trong đời người . Đào Hồng vừa chỉ tình cảm, cách yêu của chính đương số, vừa là hình bóng của người yêu đương số.

 

Đào Hồng tốt nhất là tránh xa sát tinh, được sánh cùng cát tinh. Đào Hồng không nên tụ cùng các sao tình ái, tính dục khác vào một chỗ, vì sự thái quá này sẽ gây nên tai hoạ hay dâm dục. Các sao đó là: Mộc dục, Thai, Thiên Hỉ, Thiên Riêu, Tham Lang, Kình dương, chính tinh hãm đặc biệt là Thiên Đồng hãm. Thái Âm hãm, Thất sát hãm.

 

  1. Quang Quý

 

Tương đương với Hoá Khoa về tính cứu giải, nhưng Quang Quý hiệu lực khác biệt ở chỗ nó thể hiện bàn tay của đấng linh thiêng, trời phật, thể hiện công đức tích tụ lâu dài mà có, ngoài ra tượng trưng rõ ràng nhất cho thần phật.

 

Quang Quý chỉ thực sự tác dụng nếu đi kèm với hình tượng thần phật hay hoạt động tích phúc trong thực tế. Liên hệ tới việc cầu cúng, làm lễ tại chùa để xin lộc, hay giải nạn.

 

Quang Quý còn mang ý nghĩa ơn huệ, ưu ái, ưu tiên.

 

  1. Hoá Kỵ

 

Sao này đúng là “đáng gờm” mỗi khi mở số ra. Về mặt xã hội, Hoá Kỵ chủ thị phi miệng tiếng, tai bay vạ gió. Về tình cảm Hoá Kỵ là sự bất hoà, cãi vã, bực dọc ngấm ngầm về nhau. Về sức khoẻ, Hoá Kỵ biểu trưng cho bệnh tật, đau ốm lâu dài, tiêu hoá kém. Nếu cách cục xấu thì còn bị bệnh tật về mắt, phụ nữ kinh nguyệt kém .Về tính cách, Hoá Kỵ phần nhiều đa nghi, thủ đoạn.

 

Chỉ được mỗi một cái là nó không tác dụng nhiều lên nhan sắc. Có Hoá Kỵ vẫn có thể xinh đẹp như thường.

 

Hoá Kỵ không nên gặp Nhật Nguyệt, Liêm Trinh, Cự Môn. Nên gặp Thiên Tướng, Thanh Long, Lưu Hà, Hoá Khoa thì mới có thể cứu giải.

 

Gặp cách tốt thì Hoá Kỵ là người kín đáo, giỏi tính toán hoạch định, biết nghề y dược, có thể có thành tựu lớn trong nghiên cứu, tham mưu, luật pháp.

 

Nguồn:Các bước để giải đoán tử vi