CÁCH TÍNH HẠN THÁNG HẠN NGUYỆT VẬN TRONG TỬ VI CHÍNH XÁC

CÁCH TÍNH HẠN THÁNG HẠN NGUYỆT HẠN TRONG TỬ VI CHÍNH XÁC

Xem hạn không phải quá khó nhưng cũng không phải dễ. Để luận đoán hạn và kết luận chính xác, người xem cần phải suy luận thực sự kỹ càng và tỉ mỉ.

Vấn đề xem hạn, đại hạn, tiểu hạn để biết những sự việc biến đổi trong thời gian tới là điều rất nhiều người học tử vi mong mỏi học tập và xem cho thành thục

Từ cung Tiểu Vận nghịch tháng thuận giờ (từ cung Tiểu Vận xem là tháng 1 tính nghịch đến tháng sinh, rồi từ đó kể giờ giờ Tí tính thuận đến giờ sinh thì là tháng 1)

Trong khoa đoán số Tử vi, việc đoán hạn tốt xấu (từng 10 năm và từng năm) là phần hấp dẫn nhất, nhưng cũng là phần khó. Đoán cho 12 cung, có thể dừng lại ở những điểm đại cương. Còn đoán về tiểu hạn (hay tiểu vận), tức là những việc xảy ra trong năm (và trong tháng) thì không thể làm đại cương được, gặp may hay gặp rủi, phát tài hay tán tài, có tang có ốm đau hay không, thi đậu hay trượt vỏ chuối, phải nói ra cho rõ, và sự kiểm nhận lại có ngay trong tháng trong năm, người đoán lòi ngay ra sự đoán đúng hay sai.

1. Phải xác định rõ vận mệnh, tài bạch, phúc đức, quan lộc…
Vận hạn xảy ra ở mức độ nào, còn tùy theo những điểm căn bản.
Như đến hạn phát tài lớn, nhưng ở người Mệnh thấp, Tài bạch nghèo thì sự phát tài lớn chỉ có nghĩa dăm bảy ngàn; còn ở người Mệnh cao, Tài bạch xúc tích, thì phát tài có nghĩa là hàng triệu bạc.
Gặp hạn xấu, có thể chết được, nhưng phải xem Mệnh và Phúc đức người đó thế nào. Nếu Phúc tốt, Mạng sống lâu, chưa thể đoán là hạn nặng đến chết.
2. Phải xác định gốc đại hạn 10 năm.
Trên lá số tùy theo Âm dương Nam nữ và tùy theo Thủy nhị cục, Mộc tam cục, có ghi những số: 2,12,22,32… hay 3,13,23,33…Mỗi con số đó là số tuổi bắt đầu của đại vận 10 năm. Vậy con số 32 là chỉ về đại vận từ 32 đến 41 tuổi.
Phải xem gốc đại hạn chủ về cái gì, rồi tiểu hạn (1 năm) mới ăn từ gốc đó mà ra. Thí dụ: đại hạn phát tài, thì các tiểu hạn hướng về phát tài, đại hạn chủ về công danh, thì các tiểu hạn chủ về công danh. Xem gốc đại hạn phải cộng cung chính và 3 xung chiếu.
Cứ xem như các tiểu vận trên 12 cung là thấy các tiểu hạn cứ diễn đi diễn lại hoài hoài, không lẽ vận số cứ từng chu kỳ 12 năm lại diễn ra đúng như trước. Vậy vận số 1 năm như thế nào là do cung của tiểu hạn cho biết, nhưng phải tùy theo Mệnh và Phúc đức cùng những cung chính và cũng tùy theo đại hạn. Một trong những cách giải đoán vận hạn 1 năm là nhập các sao của tiểu hạn và đại hạn lại mà đoán.
3. Phải xem lưu đại hạn
Lưu đại hạn là một cung cho biết cái hướng của vận hạn trong năm đó, và tính từ gốc đại hạn. Một nhà Tử vi đã bảo rằng đại hạn giống như cỗ xe, và lưu đại hạn giống như người tài xế. Cỗ xe tốt, thì đi tốt, những cũng còn tùy theo người tài xế hay dở thế nào. Vậy phải nhập cả cung lưu đại hạn lại mà đoán.
Xem lưu đại hạn, phải đủ cung chính và 3 xung chiếu.
Cách tính cung lưu đại hạn như sau:
Người Dương Nam, Âm Nữ, chiều chính là chiều thuận. Bắt đầu cung đại hạn, là năm đầu của đại hạn, sang cung chính chiếu là năm kế, lùi một cung theo chiều nghịch là năm kế nữa, rồi trở lại chiều thuận, chứ mỗi cung tính 1 năm, các cung và năm kế tiếp nhau cho đến lúc hết năm của đại hạn.
Thí dụ: người Dương nam, Thủy nhị cục, đại hạn 22 tại Ngọ, thì lưu đại hạn 22 tuổi ở Ngọ, 23 ở Tý, 24 ở Hợi….31 ở Ngọ.
Người Âm nam, Thủy nhị cục, đại hạn 42 ở Dậu, thì lưu đại hạn 42 ở Dậu, 43 ở Mão (cung chính chiếu), 44 ở Thìn, 45 ở Mão…51 ở Dậu.
Như vậy muốn đoán tiểu hạn, người vừa kể vào năm 44 tuổi, phải xem gốc đại hạn ở Dậu, lưu đại hạn 44 tuổi ở Thìn và cung của tiểu hạn, 3 yếu tố kết hợp với nhau mà đoán.
4. Phải xem cung tiểu hạn
Cung tiểu hạn ghi những biến cố xảy ra trong năm, địa chi của năm có ghi ở mỗi cung (Tý, Sửu, Dần, Mão…)
Đoán vận hạn trong năm, còn phải tùy theo các cung gốc:
– Mệnh, Thân, Tài, Quan, Phúc đức.
– Cung đại hạn
– Cung lưu đại hạn
Như tiểu hạn mà thật tốt về công danh, nhưng xem các cung Mệnh, Quan thấy không báo hiệu công danh tốt. Đại hạn không phải là đại hạn công danh, và lưu đại hạn không báo hiệu công danh, thì công danh trong năm tiểu hạn cũng khó mà có, hoặc chỉ có công danh nhỏ.
Ngược lại, thấy tiểu hạn xấu, nhưng lại thấy đại hạn tốt đẹp, lưu đại hạn tốt đẹp, thì cũng không có gì đáng phải lo ngại, bởi vi đại hạn là nền gốc.
Xem tiểu hạn, phải đủ cung chính và 3 cung chiếu.
5. Xem đến cung nguyệt hạn
Xem các cung nguyệt hạn là để xem hạn cho từng tháng. Dĩ nhiên nguyệt hạn phải bắt nguồn từ tiểu hạn, tiểu hạn tốt thì nguyệt hạn có xấu cũng không đáng lo. Còn tiểu hạn mà xấu, thì gốc chính đã là xấu rồi, nguyệt hạn có đẹp cũng không có nghĩa là đẹp nhiều.
Các cách tính cung Nguyệt hạn:
Cách thứ nhất
Khởi từ cung tiểu hạn kể là tháng giêng đếm theo chiều nghịch đến tháng sinh bắt đầu từ đó kể là giờ Tý theo chiều thuận đếm đến giờ sinh, lại bắt đầu từ đây kể là tháng giêng, cứ theo chiều thuận đếm từng cung là tháng giêng, tháng 2…
Thí dụ: người tuổi Kỷ Mùi, sinh tháng Tư, giờ Thìn, tiểu hạn năm Sửu
Cách thứ 2
Khởi từ cung tiểu hạn, đếm theo chiều thuận từ tháng Giêng đến tháng sinh, rồi kể từ đó là giờ Tý vẫn đếm theo chiều thuận đến giờ sinh, rồi từ đây là tháng Giêng (cung Nguyệt hạn tháng Giêng), đếm tiếp là tháng 2,3…
Thí dụ: vẫn người Kỷ Mùi, sinh tháng 4, giờ Thìn, tiểu hạn năm Sửu.
Cách thứ 3
Cung Tiểu hạn kể là tháng Giêng rồi cứ theo chiều thuận mà kể các cung sau là các tháng kế.
Xem Nguyệt hạn cũng xem cung chính và các cung chiếu.
Tại sao có đến 3 cách ấn định cung Nguyệt hạn? Đó là do kinh nghiệm.
6. Xem đến cung Nhật hạn
Xem đến tháng, có thể bấm thêm đến ngày (Nhật hạn)
Như tháng này là tháng 5, năm Sửu thì theo cách tính thứ nhất, tính nguyệt hạn, tháng 5 ở cung Tý. Lấy cung Tý là ngày mùng 1, cứ thế theo chiều thuận mà tính đi, mỗi cung 1 ngày.
Xem cung Nhật hạn, cũng đủ cung chính và 3 cung xung chiếu.
7. Xem cung thời hạn (giờ)
Còn có thể tinh đến giờ xảy ra biến cố.
Đến ngày nào đó, gọi đấy là giờ Tý, rồi cứ tính theo chiều thuận mà tính mỗi cung là 1 giờ. Như ngày mùng 9 tháng 5 năm Sửu ở cung Thân, xem sang giờ, thì gọi cung đó là giờ Tý, rồi cứ thế tính tiếp theo chiều thuận.