CÁCH CỤC TIÊN THIÊN TRONG TỬ VI CẦN BIẾT

Luận về cách cục tiên thiên của lá số tử vi

Cách cục là tố hợp kết cấu giữa sao với sao, mỗi một tổ hợp sao của các cung đều có thể kết cấu thành một cách cục. Cách cục là tổng kết của người xưa về một số tình huống cát hung thường gặp, là một số xu thế lớn của đời người. Cát cách hay cách cục phú quý là tổ hợp sao phối hợp tốt đẹp; hung cách hay cách cục nghèo khổ là tổ hợp sao phối hợp không được tốt. Cách cục cát hung là tổng kết kinh nghiệm của người xưa, rất quan trọng. Lúc luận mệnh số, trước tiên nên chú ý xem có thành cách cục gì không? Nếu thành cách cục cát hung, thì lấy cách cục để luận cát hung họa phúc. Nhưng cách cục và các bí quyết cổ đều có giới hạn và vận dụng trong một số điều kiện nhất định, nhất là ở thời hiện đại, hoàn cảnh kinh tế chính trị, hoàn cảnh địa lý, sinh hoạt tập quán,v.v… Đều khác nhau, kết luận có thể sẽ có sự khác biệt, hoặc giả đây người những ý nghĩa về đại thể, còn nội dung cụ thể sẽ khác nhau. Điều cần chú ý là không được ý theo khuôn mẫu một cách máy móc, mà phải xem xét từng trường hợp cụ thể.

Cách cục cũng có phân chia mức độ mạnh yếu, phương pháp phán đoán là xem mức độ miếu Vượng thất hãm của cung và sao, và tình hình các sao cát hung nâng lên hay dìm xuống. Cách cục phú quý gặp chính tinh miếu Vượng, cát tinh nhiều mà không có sát tinh, thì cách cục mạnh và có lực; ngược lại, chính tinh thất hãm thì cách cục yếu và không có lực; gặp các sao sát kị thì phá cách (ngoại trừ một số trường hợp đặc biệt ngoại lệ như cách cục Hỏa Tham), hào nhoáng bề ngoài mà không có thực chất, phúc trạch bị hao tổn, dù phú quý cũng thường hay có khuyết điểm (gặp phá cách cũng nên xem cách kiềm chế hóa giải, nếu lực kiềm chế sát tinh mà mạnh cũng có thể thành cách cục tốt nhưng có chút tì vết). Cách cục nghèo khổ gặp chính tinh miếu Vượng, cát tinh nhiều thì giảm hung; gặp chính tinh thất hãm, sát tinh nhiều thì tăng hung.

Cách cục phú quý

Dưới đây là trình bày một số cách cục phú quý chủ yếu. Ở đây phần nhiều là tổ hợp sao của cung Mệnh, thuộc mạng vừa quý vừa phú, hoặc quý nhiều hơn phú. Các cách cục kể dưới đây, thông thường cần phải phù hợp hoàn toàn với tổ hợp mệnh cục, chính tinh ở cung chủ yếu phải miếu Vượng, không gặp các sao sát kị và Không Vong, thiếu một điều kiện đều không thành cách cục phú quý (cách cục đặc biệt là ngoại lệ; chính tinh của cung chủ yếu gặp sát tinh là phá cục, tam phương gặp sát tinh thì không nhất định là phá cục, nhưng cũng chủ về gặp áp lực, trở ngại, trì trệ, trừ một số trường hợp đặc biệt). Cần chú ý, phải lấy chính tinh ở cung Mệnh (tức cung chủ yếu) là chính.

Cách cục Tam kỳ giai hội:

Các cung Mệnh Tài Quan Di cùng hội tam cát Hóa Khoa Quyền Lộc, không có sát tinh xung phá. Nếu gặp tứ sát tinh và Không Kiếp thủ chiếu hoặc hợp hội thì phá cục. Tổ hợp tốt nhất là mệnh tọa Khoa, tài tọa Lộc, quan tọa Quyền, cung Mệnh chính tinh miếu Vượng và không có sát tinh, còn được vận hạn phù trợ. Mệnh tọa Lộc, Tài Quan chia ra tọa Quyền Khoa, hoặc mệnh tọa Quyền, Tài Quan chia ra tọa Lộc và Khoa, là tốt kế đó. “Tam kỳ” không ưa trùng điệp, trùng điệp thì không tính là cách cục thật sự, nhưng nếu cung Mệnh miếu Vượng và không có sát tinh thì vẫn phú quý. Người nhập cách, chí hướng cao xa, gặp nhiều cơ hội thăng tiến, có vận tốt bất ngờ, công thành danh toại.

Nếu chính tinh miếu Vượng ở cung Mệnh là sao chủ về phú quý, như các sao Tử Vi, Thiên Phủ, Vũ Khúc, Thiên Tướng, Thái Dương, Thái Âm, Thiên Lương, Thiên Đồng, Thiên Cơ, tam hợp còn miếu Vượng, hội hợp thêm cát tinh, là cách cục dương danh ở đời, cự phú đại quý.

Cung Mệnh chính tinh miếu Vượng và không có sát tinh, tam phương cát hung lẫn lộn, vẫn có thể có phú quý và thanh danh, chỉ hơi kém hơn trường hợp trước mà thôi.

Cung Mệnh chính tinh không Vượng, không có sát tinh cũng có thể phú quý; cung Mệnh chính tinh thất hãm còn hội hợp thêm các sao sát kị, tuy có tài năng nhưng không gặp thời, khó phát đạt.

Phàm cung Mệnh có “Tam kỳ giai hội”, phần nhiều có chỗ khác với người bình thường. Tổ hợp đại phú đại quý ở cung Mệnh thường có: Thiên Lương ở Tí Ngọ; Thiên Đồng ở Thìn Tuất; Thiên Đồng ở Mão Dậu; Thái Âm ở Thìn Tuất; Thiên Cơ ở Tí Ngọ; Vũ Khúc, Thiên Tướng ở Dần Thân; Liêm Trinh, Thất Sát ở Sửu Mùi; Liêm Trinh, Thiên Tướng ở Tí Ngọ; Thiên Đồng, Thái Âm ở Tí; các tổ hợp còn lại phần nhiều khó được đại phú đại quý, nhiều nhất cũng chỉ là phú quý trung bình. Ngoài ra, cung vị có các sao hóa này rơi vào được tự hóa. Ví dụ, cung Mệnh tọa Lộc gặp tự Hóa Lộc, là phá Lộc, không cát tường, nếu tự Hóa Kị cũng không cát tường. Cách cục cao hay thấp còn liên quan với sao hóa, sao chủ về quyền ưa Hóa Quyền, sao chủ về tiền ưa Hóa Lộc, sao chủ về khoa văn ưa Hóa Khoa, gặp nó thì cách cục khá cao.

Cách cục Tam kỳ triều đẩu:

Mệnh tọa Tử Vi, tam phương có Khoa Quyền Lộc hội chiếu, không có sát tinh xung phá. Luận giống như cách cục Tam kỳ giai hội.

Cách cục Tử Phủ đồng cung:

Tử Vi, Thiên Phủ cùng tọa cung Mệnh ở Dần Thân, còn có Tả Phụ, Hữu Bật, Thiên Khôi, Thiên Việt thủ hoặc chiếu, không có sát tinh xung phá, mới hợp cách, chủ về suốt đời hưởng phúc lớn. Tử Vi có Tả Phụ, Hữu Bật đồng cung càng cát lợi; không có Tả Phụ, Hữu Bật là không hợp cách.

Cách cục Tử Phủ triều viên:

Tử Vi, Thiên Phủ ở tam phương hội chiếu, chính tinh ở cung Mệnh phải miếu Vượng và hội hợp thêm cát tinh, mới hợp cách, không quý cũng phú. Gặp cát tinh nhiều và không có sát tinh, là chủ về chức vị đến công khanh; có thêm các sao sát kị là người bình thường.

Cách cục Tử Phủ giáp mệnh:

Tử Vi và Thiên Phủ ở hai cung lân cận giáp cung Mệnh, cung Mệnh ở Dần Thân, không có sát tinh hội hợp, có thêm cát tinh, mới hợp cách, chủ về phú quý; không có cát tinh, là người bình thường.

Cách cục Nhật chiếu lôi môn:

Thái Dương thủ cung Mệnh ở Mão, người sinh vào ban ngày là hợp cách. Hội lục cát tinh, sinh năm Giáp Ất người sinh vào ban đêm cũng hợp cách. Thêm “tứ sát tinh” tuy phá cách nhưng cũng chủ về no ấm.

Cách cục Tướng tinh đắc địa:

Vũ Khúc miếu Vượng tọa Mệnh, không có sát tinh, mà có cát tinh, là đúng.

Cách cục Tứ chính đồng lâm:

Tử Vi và Thiên Phủ tọa mệnh, Nhật Nguyệt ở đất Vượng tụ hội ở cung Mệnh, là đúng.

Cách cục Phụ Bật củng chủ:

Tử Vi tọa Mệnh, Phụ Bật ở tam phương hội chiếu hoặc chia ra ở hai cung kế cận giáp mệnh.

Cách cục Cực hướng ly minh:

Tử Vi tọa mệnh ở Ngọ, không có sát tinh mà có Tả Phụ, Hữu Bật, Thiên Khôi, Thiên Việt, Khoa Quyền Lộc thủ, chiếu, hoặc hội hợp. Người sinh năm Giáp Đinh Kỷ, là đại phú đại quý, chức vị đến công khanh.

Cách cục Quân thần khánh hội:

Ba sao Tử Vi và Tả Phụ, Hữu Bật đồng cung thủ cung Mệnh, hoặc Tử Vi tọa mệnh, còn các sao Thiên Phủ, Thiên Tướng, Tả Phụ, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt hội hợp ở tam phương tứ chính, không có các sao sát kị thủ hoặc chiếu mới hợp cách, là đại phú đại quý; các sao kể ở trên nên hội hợp thành đôi mới được; hội hợp sao lẻ tuy nhiều trường hợp cũng có thể thành cách cục, nhưng hơi phù phiếm, không có thực chất, và vô lực, chỉ có hương vị mà thôi. Gặp các sao sát kị thủ hoặc xung chiếu thi phá cách, dù phú quý cũng chủ về gian trá.

Cách cục Nhật Nguyệt giáp mệnh:

Cung Mệnh ở Sửu Mùi, Nhật Nguyệt miếu Vượng, chia ra ở hai cung kế cận giáp cung Mệnh, chính tinh ở cung Mệnh phải Vượng cát mới hợp cách.

Cách cục Nhật Nguyệt tịnh minh:

Cung Sửu an mệnh, Thái Dương tại Tỵ, Thái Âm tại Dậu chiếu nhau, chính tinh ở cung Mệnh phải Vượng cát mới hợp cách.

Cách cục Nhật Nguyệt chiếu mệnh:

Cung Sửu an mệnh, Nhật Nguyệt cùng ở cung Mùi; hoặc cung Mùi an mệnh, Nhật Nguyệt cùng ở cung Sửu, đối chiếu cung Mệnh, là đúng.

Cách cục Nhật lệ trung thiên:

Thái Dương thủ cung Mệnh ở Ngọ, không có sát tinh, thêm cát tinh là đúng. Canh Tân sinh nhân, người sinh vào ban ngày hợp cách.

Cách cục Nhật xuất phù tang:

Thái Dương thủ cung Mệnh ở Mão, người sinh vào ban ngày là hợp cách. (Cách này còn có tên Nhật chiếu lôi môn.)

Cách cục Phủ Tướng triều viên:

Thiên Phủ và Thiên Tướng ở tam phương hội hợp cung Mệnh, chính tinh ở cung Mệnh miếu Vượng, còn có cát tinh, không có sát tinh mới hợp cách, chủ về phú quý, còn chủ về rất có duyên với người thân và bạn bè. Rất ưa Thiên Tướng ở Tí còn Thiên Phủ ở Thân, hoặc Thiên Tướng ở Ngọ còn Thiên Phủ ở Dần, hoặc Thiên Tướng ở Thân còn Thiên Phủ ở Thìn.

Cách cục Tọa quý hướng quý:

Thiên Khôi tọa mệnh, đối cung là Thiên Việt; hoặc Thiên Việt tọa mệnh, đối cung là Thiên Khôi; hoặc hai cung Mệnh, Thân mỗi cung chiếm một sao. Chính tinh ở cung Mệnh phải miếu Vượng, còn hội hợp thêm cát tinh mới hợp cách. Là người thông minh học rộng, một đời thường được quý nhân tương trợ, phùng hung hóa cát, gặp khó khăn biến thành tốt lành. Nếu cung Mệnh không có cát tinh và chính tinh không cát tường, là ngụy cách, chi chủ về có duyên với người chung quanh mà thôi, không thể phú quý.

Cách cục Thạch trung ẩn ngọc:

Cự Môn tọa mệnh ở Tí hoặc Ngọ, có một trong ba sao Hóa Khoa Quyền Lộc hội chiếu, không có sát tinh xung phá, là đúng.

Cách cục Thất Sát triều đẩu:

Thất Sát tọa mệnh ở Dần hoặc Thân, Tử Vi tại đối cung, cũng phải có lục cát tinh thủ hoặc chiếu hội mới đúng; thêm sát tinh thì không đúng.

Cách cục Song Lộc triều viên:

Lộc Tồn, sao Hóa Lộc ở tam phương hội chiếu cung Mệnh, là đúng. Còn gọi là Song lộc giao hội, lúc gặp ba lăng Hóa Lộc giao hội ở nguyên cục, đại vận và lưu niên cũng thành cách, dễ phát tài. (gặp ở hai cung Tài Quan gọi là “hợp lộc”, gặp ở hai cung Mệnh Di gọi là “củng lộc”), chính tinh ở cung Mệnh phải Vượng cát mới hợp cách.

Cách cục Song Lộc phụ mệnh:

Lộc Tồn, Hóa Lộc đồng cung hoặc giáp cung Mệnh, là đúng. Lúc cung Mệnh của đại vận hoặc lưu niên lại gặp Hóa Lộc, càng là cách cục Song Lộc Phụ Lộc, cực kỳ cát lợi; dù nguyên cục là hung cách cũng sẽ chuyên biến theo hướng tốt Chính tinh ở cung Mệnh phải Vượng cát mới hợp cách.

Cách cục Lộc hợp uyên ương:

Lộc Tồn và sao Hóa Lộc chia ra một sao thủ cung Mệnh, một sao khác ở tam phương tứ chính đến chiếu hoặc hợp, hoặc chia ra thủ ở hai cung Mệnh và Thân. Chính tinhở cung Mệnh phải Vượng cát mới hợp cách.

Cách cục Minh châu xuất hải:

Nhật ở Mão, Nguyệt ở Hợi, mệnh tọa Mùi; tối kị sát tinh xung phá, kị nhất là Kình Dương, Đà La.

Cách cục Dương Lương Xương Lộc:

Thái Dương, Thiên Lương, Văn Xương, Lộc Tồn ở tam phương tứ chính hội hợp chiếu mệnh.

Cách cục Nguyệt lãng thiên môn:

Thái Âm tọa mệnh ở Hợi, là chủ về người sinh ban đêm quý; nếu ở tam phương có cát tinh vây quanh, là chủ về đại quý; người sinh năm Bính Đinh là chủ về quý; người sinh năm Nhâm Quý là chủ về phú. Không có cát tinh cũng chủ về làm chức quan nhỏ.

Cách cục Nguyệt sinh thương hải:

Thái Âm thủ cung Điền Trạch ở Tí, là đúng; người sinh vào ban đêm mới hợp cách.

Cách cục Tài ấn giáp lộc:

Lộc Tồn thủ cung Mệnh, hai sao Vũ Khúc Thiên Tướng đến giáp cung Lộc Ton, không có sao sát kị xung phá là đúng.

Cách cục Văn tinh củng mệnh:

Tam phương của cung Mệnh có các sao Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt, và sào Hóa Khoa đến chầu, là đúng. Là ngụy cách, cung Mệnh phải Vượng cát mới phú quý.

Cách cục Nhật Cự đồng cung:

Thái Dương Cự Môn cùng thủ cung Mệnh ở Dần Thân, có Tả Phụ, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt cùng tọa thủ hoặc vây chiếu mới đúng, thêm sát tinh là không hợp cách. Có Vũ Khúc và Thiên Tướng giúp cung Mệnh là càng tốt.

Cách cục Lộc Mã bội ấn:

Lộc Tồn (sao Hóa Lộc cũng được), Thiên Mã và Thiên Tướng cùng tọa thủ cung Mệnh, là đúng; chủ về có tiền, có thế, có địa vị.

Cách cục Cơ Nguyệt Đồng Lương:

Tam phương tứ chính của cung Mệnh có 4 sao Thiên Cơ, Thái Âm, Thiên Đồng, Thiên Lương hội chiếu; có cát tinh và không có sao sát kị, là đúng; hội hợp thêm Văn Xương, Văn Khúc là tốt nhất; phần nhiều làm công tác quản lý hoặc kỹ thuật ở cơ quan nhà nước hoặc các công ty lớn. Gặp các sao sát kị là phá cách.

Một số cách cục phú quý khác

Những cách cục này phần nhiều là ngụy cách, nên phân tích tỉ mỉ, phải chú ý tình hình Vượng suy cát hung của chính tinh.

“Xuất thế vinh hoa, Quyền Lộc thủ Tài Phúc”:

Quyền Lộc thủ hai cung Tài Phúc, cung Mệnh có chính tinh miếu Vượng và nhiều cát tinh, định chủ về vinh hoa.

“Khoa Quyền Lộc củng, danh dự chiêu chương”:

Khoa Quyền Lộc chia ra thủ ở ba cung Mệnh, Tài, Quan; chính tinh ở cung Mệnh miếu Vượng, có cát tinh và không có sát tinh là đúng; chủ về chức vị cao. Thực ra đây là cách cục Tam kỳ giai hội.

“Khoa minh Lộc ám, vị chí tam công”:

Ví dụ, người sinh năm Giáp, chính tinh Hóa Khoa thủ cung Mệnh ở Hợi, còn Lộc Tồn ở Dần, thì Dần và Hợi hợp, cho nên gọi là Khoa minh Lộc ám. Phàm cung Mệnh có sao Hóa Khoa, Lộc Tồn ở cung lục hợp đều hợp đúng, nhưng vẫn cần chính tinh ở cung Mệnh miếu Vượng, có cát tính nhiều.

“Tử Phủ Nhật Nguyệt cư Vượng địa, định thị công hầu khí”:

Tử Vi ở Ngọ, Thiên Phủ ở Tuất, Thái Dương ở Mão, Thái Âm ở Dậu, còn gặp Khoa Quyền Lộc tọa thủ cung Mệnh hoặc cung Thân là đúng. Thêm các sao sát kị Địa Không, Địa Kiếp là không đúng (Hai cung Tài Quan có Lộc Tồn hoặc Hóa Lộc cũng tốt).

“Mộ phùng Tả Hữu, tôn cư Bát Tọa chi quý”, “Tả Hữu đồng cung, phi la y tử”:

Hai sao Phụ Bật cùng thủ cung Mệnh ở đất Tứ Mộ, là đúng; hoặc ba cung Tài Quan Di gặp chúng, cũng cát. Thông thường không tính là cách cục phú quý, chi chủ về được giúp sức nhiều, chính tính phải Vượng cát và không có sát tinh, mới chủ về phú quý.

“Phụ Bật ngộ Tài Quan, y phi trước tử y”:

Hai cung Tài Quan có Phụ Bật hội hợp cung Mênh, bất kể cung Mệnh ở đất nào, đều chủ về một đời y thực dồi dào; chính tinh ở cung Mệnh miếu Vượng và thêm cát tinh mới được phú quý.

“Cự Lương tương hội Liêm Tham tịnh, hợp Lộc uyên ương nhất thế vinh”:

Câu trước là nói bốn sao Cự Môn, Thiên Lương, Liêm Trinh, Tham Lang tụ hội ớ tam phương của cung Thân hoặc cung Mệnh, miếu địa và gặp cát tinh; câu sau là nói bốn sao vừa kể ở tam phương của cung Phu Thê, mà cung Mệnh và cung Phu Thê gặp Lộc Tồn hay sao Hóa Lộc thủ hoặc hội hợp, đều phú quý.

“Minh Lộc ám Lộc, cẩm thượng thiêm hoa”:

Ví dụ như người sinh năm Giáp, cung Mệnh ở Hợi, được sao Hóa Lộc tọa thủ, còn được Lộc Tồn ở cung Dần đến hợp, là đúng. Phàm cung Mệnh có một sao Lộc, phương lục hợp lại có một sao một lộc, đều đúng. (Minh Lộc là chỉ Lộc Tồn ở cung Mệnh, ám Lộc là sao Hóa Lộc ở cung lục hợp, cung tam hợp hoặc đối cung).

“Xương Khúc Lộc Cơ thanh tú xảo, Âm Dương Tả Hữu tối từ tường”:

Văn Xương, Văn Khúc, Lộc Tồn, Thiên Cơ thủ cung Mệnh, không thêm tứ sát tinh, là chủ về người anh tài lỗi lạc, thông minh xinh đẹp, cũng chủ về phú quý; Thái Âm, Thái Dương, Tả Phụ, Hữu Bật tọa cung Mệnh, không thêm các sao sát kị, là chủ về người đôn hậu hiền hòa, thanh cao hiếm thấy, độ lượng bao dung, luận phú quý.

“Thái Dương Văn Xương đồng thủ vu Quan Lộc, hoàng điện thủ ban chi quý”:

Thái Dương và Văn Xương cùng thủ ở cung Quan Lộc, hội hợp thêm cát tinh, luận phú quý, có thể làm quan cao.

“Thái Âm Văn Khúc đồng thủ vu thê cung, thiềm cung chiết quế, văn chương toàn thịnh”:

Thái Âm và Văn Khúc cùng thủ cung Phu Thê, gặp cát tinh vây quanh, nếu vận hạn đến cung này, đàn ông thi cử đỗ đạt, chủ về quan quý; phụ nữ lấy chồng sang quý, được phong tặng.

Nhật Nguyệt thủ cung Thân hoặc cung Mệnh ở đất Vượng, tam phương có Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt đến hội hợp; hoặc Văn Xương, Văn Khúc ở cung Mệnh, Nhật Nguyệt ở tam phương đến hội hợp, gặp thêm Thiên Khôi, Thiên Việt, là chủ vầ phú quý.

“Lộc Văn củng Mệnh, quý nhi thả hiền”:

Lộc Tồn ở cung Tài Bạch, Văn Xương và Văn Khúc ở cung Quan Lộc vây chiếu cung Mệnh, là người phú quý và tài giỏi.

“Khoa Quyền Lộc giáp vị quý cách”:

Trong ba sao Lộc Quyền Khoa có hai sao giáp cung Mệnh, vẫn cần chính tinh ở cung Mệnh miếu Vượng và không có sát tinh, còn hội hợp thêm cát tinh, mới chủ về đại phú quý.

Định cục giàu có

Vũ Khúc, Tham Lang tọa thủ cung Tài Bạch, chủ về hoạnh phát; Tử Vi, Thiên Phủ, Vũ Khúc tọa thủ cung Tài Bạch, lại thêm Quyền Lộc, đoán định là người giàu có, đại vận hoặc lưu niên gặp nó sẽ phát.

  • Cách cục Tài ấn giáp ấm: Thiên Lương thủ cung Mệnh, Vũ Khúc và Thiên Tướng giáp cung Mệnh; hoặc Thiên Lương thủ cung Điền Trạch, Vũ Khúc và Thiên Tướng đến giáp cung, là phú cục.
  • Cách cục Nhật Nguyệt giáp tài: Vũ Khúc thủ cung Mệnh, Nhật Nguyệt đến giáp cung; hoặc Vũ Khúc thủ cung Tài Bạch, Nhật Nguyệt đến giáp cung, là đúng. Thiên Phủ thủ cung Mệnh, Nhật Nguyệt đến giáp cung cũng vậy. Vẫn cần thêm cát tinh, không phú thì cũng quý.
  • Cách cục Tài lộc giáp mã: Thiên Mã thủ cung Mệnh, Vũ Khúc và Lộc Tồn đến giáp cung, là đúng; gặp cung sinh Vượng càng hay.
  • Cách cục Ấm ấn củng thân: Cung Thân ở cung Tải Bạch, Thiên Lương và Thiên Tướng ở tam phương vây chiếu, là đúng; nhưng kị tọa cung Không Vong.
  • Cách cục Nhật Nguyệt chiếu bích: Nhật Nguyệt ở cung Điền Trạch còn ở đất Tứ Khố.
  • Cách cục Kim xán quang huy: Thái Dương thủ cung Mệnh ở Ngọ, là đúng. Người sinh năm Đinh Tân hoặc sinh năm Giáp Thân, Giáp Tí, Giáp Thìn, là chủ về phú.
  • Lộc Tồn thủ điền tài, chồng vàng chất ngọc: Lộc Tồn thủ cung Điền Trạch hoặc cung Tài Bạch không có Không Vong phá cách là chủ về đại phú.
  • Tài ấm tọa Thiên Di, ắt là người buôn bán lớn: Tài tức là Vũ Khúc, ấm tức là Thiên Lương, hai sao này hoặc có một sao Hóa Quyền Lộc, và cát tinh ở cung Thiên Di, là đúng. Nếu thêm các sao sát kị là người binh thường.

Trên đây là các cách cục phú quý, thường ở hai cung Tài Điền, vì vậy chủ về phú nhiều hơn quý; gặp chính tinh miếu Vượng, có cát tinh thủ chiếu, ắt là giàu có.

Vận hạn cung có ảnh hưởng rất lớn đối với tình trạng phú quý, cần kết hợp để xem. Nếu các cung Mệnh Tài Phúc Điền đều tốt, vận trước tốt thì giàu trước, vận sau tốt thì giàu sau; hai vận trước sau đều tốt là cả đời đều giàu có; vận trước tốt mà vận sau không tốt là trước giàu sau nghèo; vận trước không tốt mà vận sau tổt là trước nghèo sau giàu.

Định cục nghèo khổ

Cung Mệnh không có cách cục phú quý, chính tinh lại không miếu Vượng, hai sao Không Kiếp chia ra thủ ở hai cung Tài Bạch và Phúc Đức, hơn nữa, chính tinh đồng cung cung không Vượng, là chủ về một đời nghèo khổ; nếu cung Thân hoặc cung Mệnh là cát, cũng chủ về người này tiêu xài phung phí, xem nhẹ tiền bạc, tiền đến rồi tiền đi. Cung Thân hoặc cung Mệnh gặp hai sao Không Kiếp cũng vậy. Hai sao Không Kiếp chia ra thủ cung Mệnh và cung Thân, là người nghèo khổ, nếu lại thêm Cô Thần và Quả Tú, thì cuộc đời cô quả nghèo khố. Địa Không và Địa Kiếp giáp cung Mệnh, càng hung.

Chính tinh ở cung Mệnh thất hãm còn gặp Không Vong (Chính Không thì nặng, Phó Không thì nhẹ), Địa Không, Địa Kiếp, là sinh bất phùng thời.

Lộc Tồn, sao Hóa Lộc tọa mệnh Thân, gặp Địa Không, Địa Kiếp, sao Hóa Kị, Không Vong đến xung phá, đây gọi là “Lộc gặp xung phá, trong cát có hung” (thường thường là trước thành sau bại, trước giàu sau nghèo). Hành hạn gặp nó cũng vậy (hai sao Địa Không, Địa Kiếp cùng đối càng hung).

Thiên Mã gặp Không Vong, ắt chủ về bôn ba vất vả mà chẳng thu hoạch được gì. Ví dụ như người sinh năm Giáp, Chính Triệt Không ở Thân Dậu, nếu an cung Mệnh ở Thân, thì Thiên Mã gặp Không Vong (gặp Chính Không thì nặng, gặp Phó Không thì nhẹ); gặp lưu niên Tuần Không cũng vậy.

Nhật Nguyệt thủ cung Mệnh ở hãm địa, gặp Cự Môn đồng cung hoặc chiếu, là số nghèo khổ.

Vũ Khúc và Liêm Trinh chia ra thủ cung Mệnh và cung Thân, hai sao lạc hãm còn thêm các sao sát kị mới đúng (Liêm Trinh rơi vào cung hãm mới là sao tù).

Phá Quân thủ cung Mệnh ở hãm địa, số cô độc nghèo khổ; Phá Quân và Văn Khúc cùng thủ cung Mệnh ở Mão, một đời là bần sĩ.

Tứ sát tinh thủ cung Mệnh hay cung Thân, gặp Tham Lang, Kình Dương giao hội, còn các sao cát thì thất hãm.

An cung Mệnh ở Tí, đại vận hoặc lưu niên đến cung Đại Hao, còn gặp các sao ác sát kị, là đúng.

Ba cung Phụ Mẫu, Phu Thê, Tử Nữ có các sao Không Kiếp, sát kị, là mạng sư tăng, đạo sĩ (không phải mạng cô độc nghèo khổ).

Hai cung Mệnh Thân có Liêm Trinh, Phá Quân, Vũ Khúc và Hóa Kị, lại gặp Địa Không, Địa Kiếp, Kình Dương, Đà La đến giáp cung, định là hạ cách, chủ về cô độc bần hàn. Nếu Lộc Tồn ở đất sinh Vượng, tuy có Kình Dương và Đà La giáp cung, vẫn không phải là hạ cách. Ngoài ra, Địa Không và Địa Kiếp không giáp cung cùng lúc, tam phương còn gặp sao Hóa Quyền Lộc, cũng không phải là hạ cách, nhưng gặp vận hạn có lưu sát tinh là chủ về phá tán, thất bại.

Cung Mệnh không có chính tinh, chi gặp Không Kiếp tọa thủ, tam phương không có cát tinh đền cứu, chủ về không tụ tài lộc, là mang nghèo khổ, phiêu bạt Nếu bản cung và tam phương có cát tinh, là không đúng. Bản cung lại gặp sát tinh, phần nhiều chủ về yểu mạng.

“Sinh phùng bại địa, phát dã hư hoa; tuyệt xứ phùng sinh, hoa nhi bất bại”: ví dụ như người Thủy nhị cục an mệnh tại Tỵ, ở đất Tuyệt, là đúng; nếu có sao hành Kim đồng cung đến Sinh, là được cứu. Bốn cung Dần Thân Tỵ Hợi là đất Tứ Tuyệt, mà cũng là đất Tứ Sinh.

Phá Quân ở cung Quan Lộc, lại gặp sao Hóa Kị và Kình Dương, còn Đại Hao ở cung Tài Bạch, là mạng ăn xin. Người sinh năm Dần Ngọ Tuất mệnh tọa cung Ngọ, người sinh năm Tỵ Dậu Sửu mệnh tọa cung Dậu, người sinh năm Hợi Mão Mùi mệnh tọa cung Mão, người sinh năm Thân Tí Thìn mệnh tọa cung Tí, đều đúng.

Hai cung Mệnh (hoặc Thân) tật gặp Cự Môn, Kình Dương, Đà La cùng thủ, thì bôn ba vất vả, suy tàn nghèo khó, phá sạch tổ nghiệp.

Cô quân tại dã: tứ sát tinh thủ cung Thân hoặc cung Mệnh, chính tinh lại hãm địa, là đúng.

Vận hạn gặp Thất Sát, Lộc Tồn, Thiên Mã ở đất Không Vong, là đúng.

Trong cung Mệnh có Liêm Trinh, Thất Sát, Tham Lang, hoặc Phá Quân thất hãm, còn gặp sát tinh, là mạng nghèo khổ.

Trên đây là những cách cục nghèo khổ, nếu hành vận cũng xấu thì nghèo khổ; nếu vận hạn có nâng đỡ, thì vẫn không lo rầu chuyện ăn mặc (mệnh suy hạn tốt, là cây khô Mộc gặp mùa xuân).

Định cục hung và cục ác

Người gặp hung cách và ác cách, phần nhiều dễ bi nạn tai hung hiểm. Bất kể hung cách hay là ác cách, đều phải đến lúc sao Hóa Kị của đại vận hoặc lưu niên kích động, mới ứng hung tượng; ngược lại, lúc gặp sao Hóa Lộc của đại vận hoặc lưu niên kích động, thường thường có thể biến thành tốt hoặc không ứng hung tượng.

(1) Hung cách

Bị ba nhóm hung sát tính Không Kiếp, Hỏa Linh, Kình Đà giáp cung đều là hung cách, nhưng sẽ ứng hung tượng khác nhau, hơn nữa, phải giáp cung có sao hung hoặc sao Hóa Kị, còn phải gặp lúc có sao Hóa Kị của đại vận hoặc lưu niên kích động mới ứng hung. Ví dụ, Kình Dương, Đà La giáp sao hung; Hỏa Linh giáp sao hung, Không Kiếp giáp sao hung.

Thất Sát có Kình Dương hoặc Đà La đồng cung hoặc hội chiếu, lúc lưu niên gặp Kình Dương hoặc Đà La đến quấy rối, sẽ xuất hiện hung tượng.

Sát tinh tụ tập ở tam phương là hung cách: Trường hợp cung nào của tam phương tứ chính cũng đều có sát tinh, là đúng. Lúc hành vận lại gặp các sao sát kị quấy rối, là ứng nghiệm hung tượng.

  • Song kị giáp sát tinh: Ba tầng sao Hóa Kị giáp sao hung (Ba tầng sao hóa là chi can năm sinh, can đại vận, can lưu niên; lúc luận đoán một sự việc trọng đại phải phối hợp xem ba tầng là mệnh bàn nguyên cục, đại vận bàn và lưu niên bàn; nếu luận đoán lưu thời, thì lưu nguyệt, lưu nhật, lưu thời cũng gọi là “ba tầng”).

Dưới đây là các hung cách gặp sao Hóa Lộc mà hiến thành cát cách:

  • Linh Xương Đà Vũ: Tổ hợp bốn sao Linh Tinh, Văn Xương, Đà La, Vũ Khúc, nếu thiếu Đà La, đến lưu niên có Lưu Đà có thể cấu tạo thành cách; nếu đã cấu tạo thành cách, gặp sao Hóa Lộc ắt ứng cát, gặp sao Hóa Kị ắt ứng hung.
  • Cơ Lương Dương hội: Trong tổ hợp Thiên Cơ, Thiên Lương, Kình Dương (hoặc Đà La): Thiên Cơ là cơ trí; Thiên Lương là giỏi phân tích; Kình Dương và Đà La là có nghị lực. Tổ hợp sao này là mang “trí tuệ và năng lực để đổi thành vật chất”, còn xuyên suốt từ đầu đái cuối, kết cấu nào cũng không sánh được.
  • Hình tù giáp ấn: Tổ hợp ba sao Liêm Trinh (hóa khí thành tù), Thiên Tướng (hóa khí thành ấn), Kình Dương (hóa khí thành hình phạt), lúc thiếu Kình Dương, Đà La thế cũng thành cách. Lúc Liêm Trinh Hóa Lộc là đầu óc tỉnh táo, sáng suốt, không phải là ác niệm; lúc Liêm Trinh Hóa Kị, quan lại và thương nhân câu kết nhau, làm đầy túi riêng, tham lam phạm pháp, lúc này Kình Dương (hoặc Đà La) là hành động ngoan cường, giúp Trụ bạo ngược, vì vậy khiến Thiên Tướng có tính công chính bị dính dáng liên lụy. Cách này khá có xu hướng phạm pháp, phạm kỷ luật.
  • Liêm Trinh, Thất Sát hội Kình Dương, Đà La: Tổ hợp Liêm Trinh, Thất Sát, Kình Dương (hoặc Đà La), là chủ về chôn thây trên đường. Thất Sát là Tướng Tinh, Liêm Trinh không ổn sẽ khiến Thất Sát bị ảnh hưởng, vì vậy dễ đánh giá sai thực lực của đối phương hoặc có hành vi đầu hàng địch, vi phạm kỷ luật hay phạm pháp, thân bại danh liệt hoặc đầu và thân ở hai nơi; nhưng cần phải bị sao Hóa Kị làm cho bùng nổ, mới hợp cách! Cách cục này khá thiên về sự cố bất ngờ.
  • Cách cục Mã đầu đới kiếm: Kình Dương độc tọa cung Ngọ, cung Ngọ là đất Hỏa Vượng, Kim nhập cung Ngọ, chỉ trong nháy mắt là luyện thành kiếm bén treo ở đầu ngựa, uy lực rất lớn, uy trấn biên cương, tuy phú quý nhưng không kéo dài.

Tổ hợp ba saọ Cự Môn, Hỏa Tinh, Kình Dương cũng tính là “Hiệp sát thành cách”. Hỏa Tinh là tích cực, Kình Dương là nghị lực tiễn thủ, là hai yếu tố lớn của sự thành bại! Nhưng thành hay bại, hoàn toàn do Lộc hay Kị kích động!

  • Hiệp sát cách: Là cách cục bị bốn nhóm sát tinh Hỏa Kình, Hỏa Đà, Linh Kình, Linh Đà giáp cung. Hiệp sát ách không có chính tinh, là không có mục tiêu để nỗ lực; Hiệp sát tinh cách có chính tinh, tùy theo tính của sao mà xuất hiện mục tiêu theo đuổi khác nhau. Ví dụ như Tử Vi có Hỏa Tinh, Kình Dương đồng cung hoặc hội chiếu, đặc tính của Tử Vi thành mục tiêu chủ yếu để theo đuổi.

Dưới đây là các hung cách gặp sao Không phá:

Tổ hợp sao Hỏa Tinh, Kình Dương bị Địa Không xung phá.

Tổ hợp sao Hỏa Tinh, Đà La bị Không Kiếp xung phá.

Tổ hợp sao Hỏa Tinh, Kình Dương bị Địa Kiếp xung phá.

Tổ hợp sao Hỏa Tinh, Đà La bị Địa Kiếp xung phá.

Tổ hợp sao Linh Tinh, Kình Dương bị Địa Không xung phá.

Tổ hợp sao Linh Tinh, Đà La bị Địa Không xung phá.

Tổ hợp sao Linh Tinh, Kinh Dương bị Địa Kỉếp xung phá.

Tổ hợp Linh Tinh, Đà La bị Địa Kiếp xung phá.

Tám nhóm cách cục này, gọi là “Hỏa không tắc phát” (lửa trống thì bộc phát) và “Kim không tắc minh” (Kim loại trống thì kêu), là hung cách biến thành cát cách. Lấy hai trường hợp đồng cung hoặc được song lộc giáp cung (đặc biệt lúc thành “Song Lộc Giáp Lộc” là tốt nhất) là cát tường nhất, lực bộc phát rất lớn. Nhưng nếu gặp kị giáp, là đột ngột xảy ra nạn tai thì lệnh nhân trở tay không kịp. Lúc gặp sao Hóa Lộc chiếu nhập cũng ứng hiện một số điều cát tường, nếu làm các nghề nghiệp như nghiên cứu, thiết kế, phát hiện nhân tài, sẽ được phát huy một cách thích đáng; nếu bị sao Hóa Kị xem phạm, thì sẽ xảy ra tình huống “hung mà không hoàn toàn hung”, tuy tổn thương nguyên khí, nhưng có cơ hội đến lại từ đâu, bởi vì lúc đại vận hoặc lưu niên có sao Hóa Lộc sẽ khiển nó “lập tức bùng phát”.

(2) Ác cách:

Tức hung cách biến thành ác cách, phần nhiều đều ứng hung tượng.

Kình Đà giáp kị, Hỏa Linh giáp kị, Không Kiếp giáp kị, gọi là “hung ác cách”, gặp nó càng hung, sao Hóa Kị trong đó bao gồm sao Hóa Kị của nguyên cục, đại vận, và lưu niên.

Hóa Kị hiệp sát thành cách: Sao Hóa Kị giáp bất kì nhóm nào trong các nhóm Hỏa Kình Dương, Hỏa Đà, Linh Kình, Linh Đà, đều thành cách cục “Hóa Kị hiệp sát thành cách”. Cung nào đó của tam phương hội nhập sao Hóa Kị hoặc tọa nhập sao Hóa Kị, còn hội nhập hoặc tọa nhập một trong bốn nhóm Hỏa Kình, Hỏa Đà, Linh Kình, linh Đà, cũng gọi là “Hóa Kị hiệp sát thành cách”, cách này không thể có bóng dáng Địa Không, Địa Kiếp.

Tam phương kị sát cách: Cung nào của tam phương tứ chính cũng đều có sát tinh và lúc có sao Hóa Kị, là đúng. Phân biệt với hung cách Tam phương có sát tinh tụ tập: cách cục sát tinh tụ tập mà không có sao Hóa Kị, Kị sát cách có sao Kị.

Tam kì xung khắc cách: Lúc Hóa Kị, Hóa Quyền, Hóa Khoa cùng lúc hội nhập cung nào đó, cung này sẽ hình thành tình trạng “Tam kì xung khắc”, là rất thê thảm, ắt sẽ có nạn tai.